110 230
Chào mừng quý vị đã ghé thăm trang nhà. Chúc quý vị an vui với Pháp bảo cao quý!

Tìm thấy 1952 cho từ khóa: ""

Diễn đàn Học Phật Pháp online 5:AM đã chuẩn bị bước qua 2 tuần học Phật Pháp dưới sự hướng dẫn của chư Tôn đức Giảng sư. Đến nay, xét thấy nhu cầu cần thiết và đáp ứng nguyện vọng của Tăng Ni trẻ cùng nam nữ Phật tử muốn đi sâu vào Pháp hành và hiểu rõ hơn về Thiền Tứ Niệm Xứ, nên Ban quản trị đã thỉnh cầu Chư tôn đức hướng dẫn và giảng dạy. Đáp lại lời thỉnh cầu, TT. Giác Hoàng cùng Chư tôn đức đã hoan hỷ chấp thuận hướng dẫn khoá thiền, hỗ trợ cho đại chúng tu tập tại nhà trong thời gian đại dịch này.
Diễn đàn Học Phật Pháp online 5:AM đã chuẩn bị bước qua 2 tuần học Phật Pháp dưới sự hướng dẫn của chư Tôn đức Giảng sư. Đến nay, xét thấy nhu cầu cần thiết và đáp ứng nguyện vọng của Tăng Ni trẻ cùng nam nữ Phật tử muốn đi sâu vào Pháp hành và hiểu rõ hơn về Thiền Tứ Niệm Xứ, nên Ban quản trị đã thỉnh cầu Chư tôn đức hướng dẫn và giảng dạy. Đáp lại lời thỉnh cầu, TT. Giác Hoàng cùng Chư tôn đức đã hoan hỷ chấp thuận hướng dẫn khoá thiền, hỗ trợ cho đại chúng tu tập tại nhà trong thời gian đại dịch này.
Diễn đàn Học Phật Pháp online 5:AM đã chuẩn bị bước qua 2 tuần học Phật Pháp dưới sự hướng dẫn của chư Tôn đức Giảng sư. Đến nay, xét thấy nhu cầu cần thiết và đáp ứng nguyện vọng của Tăng Ni trẻ cùng nam nữ Phật tử muốn đi sâu vào Pháp hành và hiểu rõ hơn về Thiền Tứ Niệm Xứ, nên Ban quản trị đã thỉnh cầu Chư tôn đức hướng dẫn và giảng dạy. Đáp lại lời thỉnh cầu, TT. Giác Hoàng cùng Chư tôn đức đã hoan hỷ chấp thuận hướng dẫn khoá thiền, hỗ trợ cho đại chúng tu tập tại nhà trong thời gian đại dịch này.
Lớp học được bắt đầu từ 4g30 sáng mỗi ngày. Đó là khoảng thời gian thanh tịnh, an lành, bắt đầu cho một ngày mới, thời điểm dễ định tâm cho hành giả, thời điểm lý tưởng cho việc tụng kinh, lễ kính Tam bảo, thiền tọa. Nội dung chính trong các buổi học là thời Pháp thoại của quý Sư. Đề tài Pháp thoại thiết thực, đáp ứng một cách sâu sắc những băn khoăn, trăn trở của Phật tử trong mùa dịch bệnh: “Trợ tử dưới góc nhìn Phật giáo” (TT. Giác Hoàng), “Vấn đề nạo phá thai dưới góc nhìn Phật giáo” (TT. Giác Phổ), “Tâm thế của người con Phật trong bối cảnh đại dịch Covid-19” (ĐĐ. Giác Tuyên), “Giới thiệu Pháp hành căn bản trong sự tu tập” (ĐĐ. Giác Nhường), “Đại dịch và những thông điệp từ Kinh tạng” (ĐĐ. Giác Minh Tường), “Những nguyên nhân sanh bệnh theo quan điểm Phật giáo, “Công đức nuôi bệnh”…
Sáng nay, 11-11, (nhằm ngày 26-9-Canh Tý), chư tôn đức Hệ phái Khất sĩ (HPKS) đã long trọng tổ chức lễ đặt đá phục dựng “Di tích đắc đạo Tổ sư Minh Đăng Quang” tại P.Pháo Đài, TP.Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Quang lâm chứng minh, tham dự lễ có HT.Thích Giác Nhường, Phó Pháp chủ kiêm Giám luật HĐCM; HT.Thích Giác Giới, Phó Thư ký HĐCM; HT.Thích Thiện Pháp, Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS, Trưởng ban Tăng sự T.Ư; HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học VN, Trưởng ban Tổ chức; HT.Danh Đổng, UVTT HĐTS, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Kiên Giang; ĐĐ.Thích Pháp Hảo, Phó Trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN TP.Hà Tiên, cùng chư tôn đức BTS Phật giáo các tỉnh thành, giáo phẩm HPKS, chư tôn đức Tăng Ni các giáo đoàn và Phật tử cùng tham dự. Về phía lãnh đạo, có bà Nguyễn Lê Hà, Phó Trưởng phòng Cục An ninh Nội địa - Bộ Công an; Ông Đào Văn Xem, Phó Trưởng ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang; ông Trương Công Khánh, Trưởng ban Dân tộc - Tôn giáo UBMTTQVN tỉnh Kiên Giang cùng đại diện chính quyền tỉnh, thành phố và địa phương. Tại buổi lễ, HT.Thích Giác Toàn đọc diễn văn khai mạc, nói rõ ý nghĩa và mục đích phục dựng “Di tích đắc đạo Tổ sư Minh Đăng Quang” đối với HPKS nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Theo đó, Hòa thượng cho biết Tổ sư Minh Đăng Quang - một trong những vị Tổ sư của Phật giáo Việt Nam, với chí nguyện “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp” đã khai sáng đạo Phật Khất sĩ Việt Nam (nay gọi là Hệ phái Phật giáo Khất sĩ). Trải qua 76 năm (1944 - 2020), Phật giáo Khất sĩ đã có những bước phát triển đáng kể trong công cuộc hoằng pháp lợi sanh, góp phần xây dựng hình ảnh chân tu thật học của Tăng đoàn trong ngôi nhà chung GHPGVN. Kế thừa ý niệm cao đẹp về bốn Thánh tích của Phật giáo, HPKS khởi tâm tôn tạo 4 di tích lịch sử liên hệ đến cuộc đời và đạo nghiệp của Tổ sư Minh Đăng Quang nhằm bày tỏ lòng tôn kính đối với đức Tổ sư và hàng hậu học quán chiếu bài học giác ngộ thiêng liêng. Các di tích gồm có tổ đình Minh Đăng Quang (tại tỉnh Vĩnh Long) - nơi sinh trưởng của Tổ sư; tịnh xá Mộc Chơn (tỉnh Tiền Giang) - di tích hoằng pháp độ sanh; tổ đình tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long) - nơi đánh dấu Tổ sư vắng bóng đều đã được hoàn thành. Đây là di tích thứ 4, ghi dấu nơi ngài đắc đạo tại Mũi Nai (TP.Hà Tiên, Kiên Giang). Được biết, khu di tích rộng 3.200m2, với 4 công trình: nơi tưởng niệm chính (500m2); tòa tứ giác diện (48m2) và tòa nhà lục giác (24 m2) tôn trí các tượng Tổ sư đứng và tọa thiền; tường chắn vách núi (cao 8m, dài 80m) khắc họa tiểu sử và các tác phẩm tưởng niệm Tổ sư; 2 dãy nhà Tăng Ni, Phật tử (600m2). Tổng chi phí xây dựng dự kiến từ 32 - 35 tỷ đồng. Tại buổi lễ, HT.Danh Đổng, Trưởng BTS Phật giáo tỉnh Kiên Giang bày tỏ vui mừng trước Phật sự của Phật giáo tỉnh nhà và tin tưởng công trình sẽ sớm được hoàn thành - trở thành nơi lưu giữ kỷ vật, sử liệu của Phật giáo và cũng là danh lam thắng cảnh của TP.Hà Tiên, đáp ứng nhu cầu du lịch văn hóa, tâm linh của người dân trong và ngoài tỉnh. Ban đạo từ, HT.Thích Giác Giới tán dương nỗ lực của Tăng Ni, Phật tử hệ phái, “đã kế tục tinh thần hoằng dương Chánh pháp của Tổ thầy”; đồng thời khuyến tấn hàng kế tục của HPKS “tiếp tục phát huy, phụng sự để cùng Giáo hội, nhà Nước, chính quyền các cấp xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, nhân dân an lạc trong tinh thần từ bi, vị tha của Phật giáo”. Sau đó, Ban Tổ chức cung thỉnh chư tôn giáo phẩm cử hành nghi thức đặt đá, chính thức khởi công phục dựng “Di tích đắc đạo Tổ sư Minh Đăng Quang”, trong không khí trang nghiêm, tiếng kinh trầm hùng của toàn thể đại chúng.
Hạnh sáng như vàng ròng, Ai dám chê vị ấy? Chư thiên phải khen thưởng, Phạm Thiên cũng tán dương
"Ai sống được như thế Đi đâu cũng an toàn Tới đâu cũng vững mạnh Phước đức của tự thân".
Sự trở ngại của Thiền định là gì? Đó là: "Năm triền cái là năm màn ngăn che làm cho con người không thấy được tâm mình tham lam, sân hận, ngu si, ngã mạn, nghi ngờ". Năm triền cái là chướng ngại chính cản trở sự thành công trong hành thiền và phát tuệ giải thoát
Chánh ngữ, chánh nghiệp tu trì Sống đời thanh bạch từ bi giúp người. Tâm hồn như đoá hoa tươi Con đường thiên giới mĩm cười hân hoan
Phóng sự: Mùa Vu lan Đặc biệt tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) được thực hiện bởi phóng viên Mỹ Thơm, quay phim Nam Đông - Kênh Truyền hình An Viên.
Pháp viện Minh Đăng Quang do Hòa thượng Pháp sư Giác Nhiên, Đệ nhất Trưởng Giáo đoàn IV Hệ phái Khất Sĩ sáng lập năm 1968. Lúc bấy giờ, Pháp viện tọa lạc trên một vùng đất nguyên là bãi đổ rác của thành phố, phía trước là khu ruộng đồng hoang sơ với tổng diện tích là 62.000m2 . Pháp viện Minh Đăng Quang được xây lên với dụng ý làm một trung tâm hoằng pháp lâu dài và tương xứng với sự phát triển của Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam.
Tịnh xá tọa lạc tại số 253/14 đường Nguyễn Thông, phường 3, thị xã Tân An, tỉnh Long An.  Tịnh xá do Ni trưởng Thích Nữ Minh Liên thành lập vào năm 1955. Năm 1983, ngôi tịnh xá được trùng tu lần thứ nhất với kiến trúc bằng cây lợp ngói đơn sơ. Năm 1994, Ni trưởng cho xây Thiền đường. Đến ngày 17 – 5 – 2002, Ni trưởng tổ chức đại trùng tu tịnh xá với mô hình bát giác – tượng trưng Bát chánh đạo – theo truyền thống của hệ phái Khất sĩ, tầng 1 làm điện Phật, tầng trệt làm giảng đường Minh Tâm. Tịnh xá đã tổ chức đại lễ khánh thành vào ngày 21 – 4 – 2003.
Pháp sư cốt cách thanh cao Lợi sanh hoằng pháp không nao tất lòng Giản dị, khiêm hạ, bao dung Chân tình ngời sáng dấn thân độ đời.
Mùa an cư kiết hạ năm nay mới đi qua được hơn một nửa chặng đường thì dịch Covid-19 bùng phát trở lại trong cộng đồng và đã xuất hiện các bệnh nhân lây nhiễm virus SARS-CoV-2 ở một số tỉnh, thành phố trên cả nước với diễn biến phức tạp. Và tại các điểm An cư thuộc hệ phái Khất sĩ đều tuân thủ các quy định phòng dịch của Chính phủ và hướng dẫn của TƯGH. Dù hoàn cảnh nào, chư Tăng Ni hành giả đặc biệt là những vị trẻ cũng cần tuân thủ các thời khóa tu tập của trường hạ để thúc liễm thân tâm, thực hành chánh niệm, chuyển hóa phiền não.
  Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, Tịnh xá Ngọc Quang, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk như đóa sen vàng nổi bật giữa màu xanh ngút ngàn của núi rừng trùng điệp. Nơi đây từ lâu trở thành trung tâm tu học của Hệ phái Khất sĩ tại Tây Nguyên và là Đạo tràng sinh hoạt có quy củ của đồng bào Phật tử trong vùng.  
"Phồn hoa rủ bóng không theo Thiền lâm an trú ẩn nghèo nhàn cư Sớm khuya Bát nhã đèn từ Nước ma-ha rửa sạch ngu nhiều đời Lòng thiền vằng vặc trăng soi Hiu hiu thế sự, gió thời gian qua Bụt hiện tịnh cốc lòng ta Ngại chi non nước đường xa dặm trời"
...Nhiều lúc tôi ngẫm nghĩ các vị giống như con dao, được trui rèn cho tốt, mài cho sắc nhưng rồi để treo chưng chứ không sử dụng. Như vậy uổng quá! Chưa kể nhiều vị dính vào thói ham danh, lấy cái học vị đi khoe mẻ với đời, chứ khi cống hiến và làm việc thì không thấy đâu. Hoặc nhiều vị, lấy cái học vị ấy để đi lo chuyện riêng, việc tư chứ còn việc chung của Hệ phái thì không thấy đóng góp. Có nhiều vị có học vị cao mà “nhận thức”, tôi thấy tệ lắm. Có vị nói: “Con học hành đỗ đạt là do tự thân vận động”. Các vị đó nghĩ như vậy, nên rồi giờ học về không phụng sự hay phục vụ cho Hệ phái hay Tổ Thầy. Vậy thì, tôi xin phép hỏi: Thuở các vị phát nguyện “chết đời sống đạo” thì ai khai sinh quý vị? Quý vị đi học hành nhờ vào bá tánh ủng hộ cúng dường, khi ấy Phật tử họ cúng với động cơ, suy nghĩ gì? Có phải Phật tử cúng với suy nghĩ cúng dường cho một vị Tăng (Ni) học hành để phụng sự Tam Bảo, phụng sự cho giáo pháp Khất sĩ không? Thế nên, chúng ta âm thầm thừa hưởng ân đức Tam Bảo mà chúng ta không hiểu, không chịu suy gẫm, ngược lại đi phủ nhận, như vậy thì tệ lắm. Tôi nêu lên thực trạng vậy để đại chúng cùng suy nghĩ, nếu học hành đỗ đạt mà như vậy thì có xứng đáng với mong mỏi của Tổ Thầy, có làm Tăng Ni Phật tử tứ chúng hoan hỷ hay không?
...Nhiều lúc tôi ngẫm nghĩ các vị giống như con dao, được trui rèn cho tốt, mài cho sắc nhưng rồi để treo chưng chứ không sử dụng. Như vậy uổng quá! Chưa kể nhiều vị dính vào thói ham danh, lấy cái học vị đi khoe mẻ với đời, chứ khi cống hiến và làm việc thì không thấy đâu. Hoặc nhiều vị, lấy cái học vị ấy để đi lo chuyện riêng, việc tư chứ còn việc chung của Hệ phái thì không thấy đóng góp. Có nhiều vị có học vị cao mà “nhận thức”, tôi thấy tệ lắm. Có vị nói: “Con học hành đỗ đạt là do tự thân vận động”. Các vị đó nghĩ như vậy, nên rồi giờ học về không phụng sự hay phục vụ cho Hệ phái hay Tổ Thầy. Vậy thì, tôi xin phép hỏi: Thuở các vị phát nguyện “chết đời sống đạo” thì ai khai sinh quý vị? Quý vị đi học hành nhờ vào bá tánh ủng hộ cúng dường, khi ấy Phật tử họ cúng với động cơ, suy nghĩ gì? Có phải Phật tử cúng với suy nghĩ cúng dường cho một vị Tăng (Ni) học hành để phụng sự Tam Bảo, phụng sự cho giáo pháp Khất sĩ không? Thế nên, chúng ta âm thầm thừa hưởng ân đức Tam Bảo mà chúng ta không hiểu, không chịu suy gẫm, ngược lại đi phủ nhận, như vậy thì tệ lắm. Tôi nêu lên thực trạng vậy để đại chúng cùng suy nghĩ, nếu học hành đỗ đạt mà như vậy thì có xứng đáng với mong mỏi của Tổ Thầy, có làm Tăng Ni Phật tử tứ chúng hoan hỷ hay không?
Sáng nay, ngày 14-6-2020, là ngày thứ 6 của khóa bồi dưỡng trụ trì, TT. Minh Thành - UV TT HĐTS, Phó viện Trưởng VNCPHVN, Giáo phẩm Hệ phái- đã đến và trình bày về định hướng công việc của Ban Giáo dục Tu thư Hệ phái chuẩn bị hướng đến mừng sự kiện 100 năm ngày sinh của Đức Tổ sư. Trong bài trình bày, Thượng tọa đã đề cập đến những vấn đề cần làm của Ban tu thư như soạn thảo, định hướng những môn học, những quyển chơn lý cần được đem ra giảng dạy,…..với mục tiêu làm để hoàn thiện vấn đề đạo hạnh hay làm thế nào để toát lên cái đẹp của vị Khất sĩ trong xã hội. Thượng tọa đã vẽ ra một bức tranh phát triển của người khất sĩ từ xưa cho đến nay, và tương lai của cái đẹp sẽ thế nào.  Sau đó thượng tọa vẽ nên một bức tranh hiện tình giáo pháp ngày nay, và nói lên những trăn trở, ưu tư của thế hệ trẻ cho bức tranh giáo pháp, tông môn khất sĩ để cho hợp với thời đại khoa học và để củng cố tinh thần trọng thị mà xã hội đã dành cho khất sĩ ngày nay. Tiếp đến thượng tọa nhấn mạnh đến con đường hướng đến sự hoàn thiện tiêu chí trên, tiêu chí của tông môn “Nối truyền Thích ca Chánh pháp” của người khất sĩ, và làm cho nguồn mạch tâm linh đầy tinh thần giải thoát, đầy bản sắc văn hóa Việt Nam qua những chữ như: Lễ, Hòa, Nhẫn, Hạnh…. Cuối cùng thượng tọa chia sẻ vài vấn đề về tâm lý để người trụ trì, hay người khất sĩ cần hiểu rõ để hành xử cho hợp với những lời dạy trong Chơn lý và hoàn thiện cái đẹp của vị hành giả khất sĩ.   
Sáng nay, ngày 14-6-2020, là ngày thứ 6 của khóa bồi dưỡng trụ trì, TT. Minh Thành - UV TT HĐTS, Phó viện Trưởng VNCPHVN, Giáo phẩm Hệ phái- đã đến và trình bày về định hướng công việc của Ban Giáo dục Tu thư Hệ phái chuẩn bị hướng đến mừng sự kiện 100 năm ngày sinh của Đức Tổ sư. Trong bài trình bày, Thượng tọa đã đề cập đến những vấn đề cần làm của Ban tu thư như soạn thảo, định hướng những môn học, những quyển chơn lý cần được đem ra giảng dạy,…..với mục tiêu làm để hoàn thiện vấn đề đạo hạnh hay làm thế nào để toát lên cái đẹp của vị Khất sĩ trong xã hội. Thượng tọa đã vẽ ra một bức tranh phát triển của người khất sĩ từ xưa cho đến nay, và tương lai của cái đẹp sẽ thế nào.  Sau đó thượng tọa vẽ nên một bức tranh hiện tình giáo pháp ngày nay, và nói lên những trăn trở, ưu tư của thế hệ trẻ cho bức tranh giáo pháp, tông môn khất sĩ để cho hợp với thời đại khoa học và để củng cố tinh thần trọng thị mà xã hội đã dành cho khất sĩ ngày nay. Tiếp đến thượng tọa nhấn mạnh đến con đường hướng đến sự hoàn thiện tiêu chí trên, tiêu chí của tông môn “Nối truyền Thích ca Chánh pháp” của người khất sĩ, và làm cho nguồn mạch tâm linh đầy tinh thần giải thoát, đầy bản sắc văn hóa Việt Nam qua những chữ như: Lễ, Hòa, Nhẫn, Hạnh…. Cuối cùng thượng tọa chia sẻ vài vấn đề về tâm lý để người trụ trì, hay người khất sĩ cần hiểu rõ để hành xử cho hợp với những lời dạy trong Chơn lý và hoàn thiện cái đẹp của vị hành giả khất sĩ.   
Trụ trì theo nghĩa thông thường là người thực thi trách nhiệm Phật sự Tăng sai, làm nhiệm vụ giữ gìn cơ sở tự viện, tịnh xá, hướng dẫn Tăng tín đồ trong tự viện tịnh xá đó tu hành đúng chánh pháp, hoằng dương chánh pháp làm lợi lạc chúng sanh. Tùy theo mỗi thời đại, trọng trách của trụ trì cũng thay đổi để thích ứng với nhu cầu của thời đại đó, không gói gọn trong trách nhiệm, bổn phận mà hàm chứa tất cả những gì người làm trụ trì phải có, phải làm cho thích nghi với thời đại. Nói cách khác, muốn làm tốt chức năng trụ trì, Tăng Ni cần thể hiện tâm đức, tuệ đức, ứng dụng linh hoạt các phương tiện giáo hóa sao cho thích hợp với thời đại để làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trong giai đoạn mà mình nhận lãnh trách nhiệm. Trong phạm vi bài thuyết trình này, chúng tôi xin nêu ra một số tiêu chí để chúng ta cùng thảo luận, giúp cho những vị chuẩn bị làm trụ trì một số kinh nghiệm để làm tốt chức năng này trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Trụ trì theo nghĩa thông thường là người thực thi trách nhiệm Phật sự Tăng sai, làm nhiệm vụ giữ gìn cơ sở tự viện, tịnh xá, hướng dẫn Tăng tín đồ trong tự viện tịnh xá đó tu hành đúng chánh pháp, hoằng dương chánh pháp làm lợi lạc chúng sanh. Tùy theo mỗi thời đại, trọng trách của trụ trì cũng thay đổi để thích ứng với nhu cầu của thời đại đó, không gói gọn trong trách nhiệm, bổn phận mà hàm chứa tất cả những gì người làm trụ trì phải có, phải làm cho thích nghi với thời đại. Nói cách khác, muốn làm tốt chức năng trụ trì, Tăng Ni cần thể hiện tâm đức, tuệ đức, ứng dụng linh hoạt các phương tiện giáo hóa sao cho thích hợp với thời đại để làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trong giai đoạn mà mình nhận lãnh trách nhiệm. Trong phạm vi bài thuyết trình này, chúng tôi xin nêu ra một số tiêu chí để chúng ta cùng thảo luận, giúp cho những vị chuẩn bị làm trụ trì một số kinh nghiệm để làm tốt chức năng này trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Được sự cho phép của Giáo hội và Chính quyền các cấp, mỗi năm chư Tôn đức Giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ tổ chức một khóa BỒI DƯỠNG TRỤ TRÌ vào đầu mùa An cư. Vào lúc 8h00 sáng hôm nay, ngày 9 tháng 6 năm 2020 (nhằm ngày 18 tháng 4 (âl nhuần), tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Xa lộ Hà Nội, Q. 2, TP. HCM), Hệ phái Khất sĩ tổ chức Lễ Khai mạc khóa Bồi dưỡng Trụ trì (BDTT), PL. 2564 – DL. 2020 với chủ đề tham luận VAI TRÒ CỦA TRỤ TRÌ TRONG THỜI HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN.
Trụ trì (主持), cũng gọi là Trụ trì chức. Danh xưng này là một thuật ngữ, buổi đầu vốn có hàm nghĩa trụ lâu ở thế gian để giữ gìn, bảo hộ Phật pháp. Vì thế, trong Kinh Viên Giác nói rằng: “Nhất thiết Như Lai quang nghiêm trụ trì” để giải thích hàm nghĩa đó; còn chỉ tạp danh thì về sau chỉ cho vị Tăng làm chủ và quản lý một ngôi già lam, tự viện nào đó.
Trụ trì (主持), cũng gọi là Trụ trì chức. Danh xưng này là một thuật ngữ, buổi đầu vốn có hàm nghĩa trụ lâu ở thế gian để giữ gìn, bảo hộ Phật pháp. Vì thế, trong Kinh Viên Giác nói rằng: “Nhất thiết Như Lai quang nghiêm trụ trì” để giải thích hàm nghĩa đó; còn chỉ tạp danh thì về sau chỉ cho vị Tăng làm chủ và quản lý một ngôi già lam, tự viện nào đó.
Sáng hôm nay, ngày 10 tháng 6 năm 2020 (nhằm 19-4 âl nhuần, năm Canh Tý), tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Xa lộ Hà Nội, Q. 2, TP. HCM), Ban Tổ chức khóa Bồi dưỡng Trụ trì (BDTT) cung thỉnh Hòa thượng Thích Huệ Thông - Phó Tổng Thư ký HĐTSTW GHPGVN, Chánh Văn phòng 2 TWGHPGVN, Trưởng BTS GHPGVN tỉnh Bình Dương, đã quang lâm khóa BDTT chia sẻ kinh nghiệm tu học và phụng sự, với chủ đề Những điều cần biết của vị trụ trì.
Thanh tịnh không nhiễm ô là diệu tánh của Phật, cư trần không nhiễm trần là tịnh tánh của Tăng, Phật trụ thế gian khiến cho hết thảy chúng sanh nương vào thể tánh thanh tịnh của Ngài mà đắc đại an lạc, Tăng trụ trên đời diễn tịnh ý, cư trần bất nhiễm trần, làm cho đại chúng tỏ hiện tánh tịch lặng đắc diệu thanh lương. Diệu tánh thanh lương, diễn ý cư trần bất nhiễm hai tính chất này được Phật giải bày trong đức tính của hoa sen.
Thất thánh tài là bảy món của cải về tinh thần của hàng Thánh giả: Tín: Tín là đức tin lòng chánh tín. Giới: Giới là giữ giới hạnh trong sạch. Tàm: Biết hổ thẹn khi phạm lỗi. Quí: Biết xấu hổ với chính mình khi phạm lỗi. Đa văn: Đa văn tức nghe nhiều biết rộng. Trí tuệ: Có trí tuệ sáng suốt nhận biết tà, chánh. Xả: Buông bỏ tất cả mọi sự đắm trước, từ tâm niệm phàm tình đến vật chất bên ngoài. Niết Bàn Kinh dạy rằng chư Phật, Bồ Tát có đủ Thất Thánh tài, cho nên tôn xưng là bậc Thánh nhân.
Nếu cái này tồn tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt.
Lời Phật dạy luôn là chân lý: Nhận thức được triết lý Vô thường để không chủ quan cho sự vĩnh cửu của mọi thứ trên cuộc đời, nhất là mạng sống; nhận thức được Nhân duyên sinh để không hoang tưởng mình là cái rốn của vũ trụ; nhận thức Nhân quả để không sống liều lĩnh, mù quáng; thực tập từ bi để có tình thương yêu, tôn trọng sự sống của muôn loài và cùng chia sẻ nỗi thống khổ của chúng sanh; và tu tập để đạt đến Giác ngộ là đỉnh cao trí tuệ, vượt trên tất cả mọi thứ tri thức thông thường và vật chất tạm bợ trên thế gian này.
“Dẫu tại bãi chiến trường Thắng ngàn ngàn quân địch Tự thắng mình tốt hơn Thật chiến thắng tối thượng”.
“Lời vàng tiếng ngọc gởi về con Đạo đức bền tâm giữ vẹn tròn Dầu cách xa Thầy muôn vạn dặm Gìn lòng son sắt sánh bằng non”.
“Lời vàng tiếng ngọc gởi về con Đạo đức bền tâm giữ vẹn tròn Dầu cách xa Thầy muôn vạn dặm Gìn lòng son sắt sánh bằng non”.
“Lời vàng tiếng ngọc gởi về con Đạo đức bền tâm giữ vẹn tròn Dầu cách xa Thầy muôn vạn dặm Gìn lòng son sắt sánh bằng non”.
PC. 1 Xưa nay các pháp trong đời Tâm làm chủ, tâm gọi mời mà nên Ngày ngày ác hạnh triền miên Nói năng, hành động dính liền nhiễm ô Như bánh xe theo chân bò Nghiệp khổ cũng thế hẹn hò cùng tâm. PC. 2 Xưa nay các pháp trong đời Tâm làm chủ, tâm gọi mời mà nên Ngày ngày thân tâm tịnh yên Nói năng, hành động, ý hiền thiện nhân Như hình với bóng keo sơn Phước lạc cũng thế, theo chân quả lành.
Đức Phật dạy: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh ngữ? Này các Tỷ-kheo, đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh ngữ” (Kinh Tương ưng bộ). Hay nói cách khác, chánh ngữ là lời chân thật, lương thiện, đúng đắn, chính đáng.
Lục Tổ Huệ Năng là tổ thứ 6 của thiền tông Trung hoa, và là tổ thứ 33 kể từ tổ Ma-ha-ca-diếp của thiền tông Ấn độ. Lục Tổ mở đầu một truyền thống sinh hoạt, tu tập, giảng pháp mới mẻ và sinh động tại các chùa thiền, lan truyền gần như khắp Trung hoa đến Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Hai vị đệ tử xuất sắc của ngài là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng đã phát triển mạch thiền. Từ đó các dòng thiền Việt Nam cũng có nguồn gốc từ hai vị này. Tỳ-ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm, Lâm Tế, Tào Động, tức là các tông phái thiền chính thống từ Lục Tổ Huệ Năng. Pháp Bảo Đàn Kinh là văn bản thiền đầy đủ, cụ thể nhất về cuộc đời hành trạng và pháp ngữ của Lục Tổ, qua đó ta thấy một giáo pháp khi thì nhẹ nhàng chân chất, khi thì hóc hiểm, kỳ khưu, một biện chứng pháp siêu Việt của Tổ sư Thiền nhằm thâm nhập trực tiếp vào tâm người học. Có một số tranh cãi về việc truy tìm bản gốc của Pháp Bảo Đàn Kinh vì hiện nay có khoảng 10 bản dài ngắn khác nhau, niên đại khác nhau và một số chi tiết bị cho là đã do người sau thêm vào, bỏ bớt hay sửa đổi. Bản xưa nhất là được tìm thấy ở động Đôn Hoàng được chép vào thế kỷ thứ 9, ngắn chỉ gồm 2000 chữ. Các bản khác được chép trong khoảng thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 12. Có nhiều bản dịch Việt ngữ của các dịch giả nổi tiếng như hòa thượng Minh Trực, hòa thượng Thanh Từ, hòa thượng Mãn Giác, ni trưởng Trí Hải. Do cơ duyên thuận tiện, tôi đã có thời gian đọc đi đọc lại nhiều lần bản Việt dịch của hòa thượng Thanh Từ và ni trưởng Trí Hải nên tôi tham khảo 2 bản Việt dịch này để diễn ra thơ. Dù các bản chép Pháp Bảo Đàn Kinh có những sự khác biệt như trên đã nói nhưng đó chỉ là những tiểu tiết, nội dung chủ yếu vẫn không sai khác. Văn bản này vẫn vô cùng quan trọng, thiết yếu cho những ai tu học Thiền tông gốc gác Trung hoa, do đó tôi không quan tâm đến những khác biệt tiểu tiết. Đọc Pháp Bảo Đàn Kinh tôi không ngăn được sự trào dâng cảm xúc chân thành, những ý tưởng tâm đắc, tự nội, tự thân. Như một truyền thống diễn dịch các kinh luận, pháp ngữ bằng thơ lục bát của hệ phái pháp sĩ Việt Nam, tôi đánh bạo chuyển Pháp Bảo Đàn Kinh thành thơ lục bát phù hợp với thính giả, độc giả Nam bộ. Làm công việc này tôi lưu ý có 2 điều có vẻ trái ngược nhau, một là cố gắng giữ trọn ý nghĩa của văn bản Pháp Bảo Đàn Kinh, hai là không ra sức ngăn cản cảm xúc của chính mình. Biên soạn xong tập sách nhỏ này, đọc lại bản thảo tôi nghĩ hẳn có chổ còn sơ xót, lầm lạc, hẳn có chổ tôi để cho niềm cảm xúc sự diễn ý đi xa, e có thể xa rời văn bản. Thế rồi tôi tự nghĩ, mình đã cố hết sức, đã chân thành, nếu có sơ xuất chắc Lục Tổ và độc giả cũng niệm tình lượng thứ với một tấm lòng, niềm tin Phật, tin Tổ, tôi nghĩ đến quê hương xuất phát mạch thiền Lục Tổ rồi mượn câu ca dao Việt Nam để tự nhủ: "Đá mòn nhưng dạ không mòn Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ" ​ Pháp viện Minh Đăng Quang Mậu Tuất 2018 Sa môn Thích Giác Toàn
Miệng ta là cánh hoa sen, Một khi hé nở , một phen thơm lừng. Tiếng ta là gió mùa xuân, Một cơn thổi nhẹ , muôn dân mát lòng....
“Bỏ phẫn nộ, ly mạn, Vượt qua mọi kiết sử, Không chấp trước danh sắc. Khổ không theo vô sản.”
Hiểu được sát sinh và những hậu quả, là người con Phật, chúng ta phải nêu cao tinh thần không sát sinh và cố gắng hướng đến việc ăn chay để tốt cho sức khỏe, tốt cho môi trường sống và nhất là tốt cho tinh thần, giúp việc tu hành thêm tinh tấn và sớm đạt được thành tựu nhất định.
Hơi thở hạnh phúc cũng giống hơi ấm. Thở vào, chúng ta để cho hạnh phúc thấm vào trong cơ thể của mình, chúng ta thầm nói: “Hạnh phúc đang thấm vào cơ thể con”
“Này các tỷ kheo, Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật”
Theo đạo Phật, công cuộc tìm kiếm hạnh phúc thật đơn giản nhưng đầy khó khăn, vì người ta thường hay lầm tưởng: cái nguyên nhân gây ra khổ đau thì lầm tưởng đó là hạnh phúc. Con đường đi đến hạnh phúc, con đường ấy, nghĩa là hạnh phúc, hoàn hảo từ lúc đầu, hoàn hảo ở chặng giữa, và hoàn hảo ở chặng cuối cùng, được tóm tắt trong bài kệ truyền đời từ những bậc giác ngộ xa xưa trong khuất mù của lịch sử nhân loại, được Đức Phật Thích-ca nói lại: Các xấu ác chớ làm Tốt thiện hãy vui làm Tự thanh tịnh tâm ý Là lời chư Phật nói.
Muốn đạt được hạnh phúc, thỏa mãn dục lạc, con người phải ra sức tìm cầu, phải tạo dựng để gặt hái kết quả. Con người cần có nhà đẹp, xe tốt, nhiều tiền... nên phải cố gắng làm lụng vất vã, chịu đủ sự khổ nhọc đến với bản thân như ốm đau bệnh tật, chịu đựng nắng gió, mưa lạnh và vô số chướng ngại khác để đạt được mục tiêu, có khi còn phương hại đến cả tính mạng. Vì lý do này hay lý do khác, con người không ngừng cố công tìm cầu nhằm thỏa mãn cái mà người ta gọi là “giá trị của cuộc sống”.
Không biết mỗi chúng ta - mỗi cái đốm li ti trong dòng đời xuôi ngược này dành được mỗi ngày mấy phút để nghĩ xem mình là ai và về những cái mình cố đạt được trong năm mười năm, hay vài chục năm nữa sẽ có giá trị gì đối với cái vũ trụ mênh mông, chẳng biết bắt đầu và kết thúc tại đâu?
Theo đạo Phật, công cuộc tìm kiếm hạnh phúc thật đơn giản nhưng đầy khó khăn, vì người ta thường hay lầm tưởng: cái nguyên nhân gây ra khổ đau thì lầm tưởng đó là hạnh phúc. Con đường đi đến hạnh phúc, con đường ấy, nghĩa là hạnh phúc, hoàn hảo từ lúc đầu, hoàn hảo ở chặng giữa, và hoàn hảo ở chặng cuối cùng, được tóm tắt trong bài kệ truyền đời từ những bậc giác ngộ xa xưa trong khuất mù của lịch sử nhân loại, được Đức Phật Thích-ca nói lại: Các xấu ác chớ làm Tốt thiện hãy vui làm Tự thanh tịnh tâm ý Là lời chư Phật nói.
...Thực tập là để cởi bỏ những sợi dây ràng buộc, để có tự do. Tự do ấy mà không có thì ta không có gì hết. Khi sống cuộc đời của mình trong tu viện mà được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bốn chất thường, lạc, ngã và tịnh ấy thì ta mới nên nói về Phật pháp và mới nên đem Phật pháp chia sẻ với người khác.
...Nếu muốn tránh khỏi mọi sự khổ báo trong thế gian, thì phải tu tập theo pháp tịch diệt, vô úy, quyết chí đoạn trừ mọi cái duyên do, trong lòng gìn giữ mọi mối chánh đạo chớ vướng dính cảnh trần, đừng ham nhiễm sự tục, thân tâm thanh tịnh, thì chứng được quả Niết Bàn thật là sung sướng.
Ngài Đại Đức có tên gọi "Sīvali" nghĩa là: dập tắt mọi nóng nảy, lo sợ của những người thân yêu, đem lại sự mát mẻ, an vui cho mọi chúng sanh.
Đạo đức học của giải thoát, tích cực, cụ thể và lạc quan. Tích cực vì nó kêu gọi con người lên đường diệt khổ, khuyến khích sự tinh tấn, hành thiện, cụ thể và thực tiễn vì đối tượng giải thoát là con người, là cuộc đời ngay đây và bây giờ; lạc quan vì nó tuyên bố mọi người đều có đầy đủ khả năng giải thoát tối hậu.
Giữ thân trong sạch hạnh phúc biết bao Giữ miệng trong sạch hạnh phúc biết bao Giữ ý trong sạch hạnh phúc biết bao Thân cùng khẩu ý trọn lành Xa lìa tội lỗi gần cành hoa sen
Cư sĩ là người đã quy y Tam bảo. Đó là điều được xác tín trong cả kinh điển Bắc truyền và Nam truyền(1) Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung. Khảo sát từ kinh tạng và qua cuộc đời của những vị cư sĩ tiêu biểu thời Phật cho thấy, mẫu hình người cư sĩ lý tưởng được Đức Phật đề cập khá cụ thể và chi tiết. Theo khảo sát, một người cư sĩ lý tưởng phải hoàn thiện bốn phẩm chất cơ bản: Ổn định về kinh tế; trang nghiêm về giới hạnh; thăng bằng và điều hòa; hộ pháp và hoằng pháp.
Đạo Phật không chấp nhận một số phận sinh ra là phải chấp nhận cuộc đời như vậy. Nếu ai buông xuôi chấp nhận, Đức Phật cho người đó là tiêu cực.
"Này chư Hiền, Thế Tôn không chủ trương rằng chỉ có những gì tùy thuộc lạc thọ là thuộc về lạc; vì rằng, chư Hiền, Thế Tôn chủ trương rằng chỗ nào, chỗ nào có được lạc thọ, như vậy chỗ ấy, chỗ ấy thuộc về lạc"
Mưa Pháp, Mưa Hoa ... Giọt Nhiệm Mầu Từ Nguồn Bát Nhã. Thấm ngàn dâu Trường A Hàm, Mở... Thơm Xuân Mới Vi Diệu Chuông, Ngân ... Lắng Não Sầu Thanh Khiết Sen Hồng, Dâng Đại Nguyện Sáng Ngời Đuốc Tuệ, Ngát Kinh Cầu Đất Trời vào Hội ... Xuân Nhân Ái Điệp Khúc Thanh Bình khắp Á, Âu ...
Đừng vội vã diệt trừ phiền não. Trước tiên, bạn phải kiên nhẫn tìm hiểu đau khổ và nguyên nhân của nó, có thế mới loại bỏ được phiền não hoàn toàn. Cũng như muốn đồ ăn được tiêu hóa dễ dàng, bạn phải nhai kỹ vậy.
Những cơn sóng ảo giác nổi lên cuồn cuộn hòa quyện nơi biển thực tại mênh mông đã vùi dập cuốn phăng đi "cái tôi " nhỏ bé đáng tội nghiệp và suýt nữa nhấn chìm nó. Ngay đây cái tôi đã tự lừa dối chính nó, vì giữa mộng và thực luôn có khoảng cách, cái bên trong và cái bên ngoài có đời nào giống nhau đâu, ảo giác và hiện thực chẳng thể nào rung cảm trên cùng một tần số, "thế giới của cái tôi" có bao giờ chấp nhận "thế giới chẳng phải tôi". Đó là sự đối kháng, mâu thuẩn giữa "cái tôi" và "cái chẳng phải tôi", từ đây đã dẫn đến đại bi kịch của kiếp nhân sinh. Tình yêu muôn đời vẫn là cuộc chiến tranh kéo dài bất tận không đoạn kết, vì nơi đó không có kẻ thắng và người bại.
“Này hỡi các Tỳ kheo, dầu có người bình phẩm, chỉ trích các con như thế nào, đúng hay sai, hợp thời hay không, lễ độ hay thô bỉ, hợp lý hay điên rồ, ngay thẳng hay gian xảo, các con hãy cố gắng rèn luyện tâm tánh giữ tâm luôn trong sạch, không khi nào thốt ra một lời xấu xa bất thiện, luôn luôn dịu hiền và bi mẫn đối với những người ấy. Các con hãy mở rộng tấm lòng để tâm từ cuộn chảy đến họ như một dòng suối trường lưu bất tức. Các con nên rải tâm Từ bao trùm cả càn khôn vạn vật, dồi dào phong phú vô lượng vô biên. Không bao giờ thù oán, không sân hận, các con phải cố gắng tự trau dồi như thế”.
Trong Kinh tạng Pàli có câu nói “Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài” (Yo sàro so thassati)2, nhấn mạnh mục đích thuyết pháp của Đức Phật là nhằm huấn luyện các học trò mình đạt đến cứu cánh giác ngộ, đạt đến tâm giải thoát kiên cố, không dao động, không thối chuyển, vững chắc, cứng rắn như lõi cây. Vì theo lời Ngài thì chỉ có lõi cây (sàra) - tâm giải thoát bất động (akkupà- cetovimutti) - mới là cứu cánh, mới an trụ vững bền
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường nghe nói: Người này "có phước" quá, cho nên mới được vừa giàu sang, vừa học giỏi, vừa đẹp đẽ, vừa mạnh khỏe, vừa may mắn, cầu con được con, cầu của được của, vạn sự như ý, tùy tâm mãn nguyện. Hoặc cũng có khi chúng ta nghe nói: Người này "bạc phước" quá, cho nên làm chuyện gì cũng thua lỗ, tính toán việc gì cũng hỏng, muốn gì cũng không nên, cầu gì cũng chẳng được, tai họa xảy ra tới tấp, gặp xui xẻo liên miên! Khi được may mắn, khi được sung sướng, khi được những sự như ý, khi được tất cả những điều gọi là "có phước", người đời thường nghĩ rằng, cho rằng: mình có phước báu như vậy là do trời thương, trời ban cho mình! Những người đó không chịu tìm hiểu thêm: Tại sao ông trời lại thương mình và ban cho mình phước báu như vậy, mà không ban cho biết bao nhiêu người khác? Như vậy có phải là bất công chăng? Như vậy có đúng chăng? Tại sao con người lại có ý nghĩ như vậy?
Này các Tỷ-kheo, có bốn điều đáng sợ hãi chờ đợi những ai lội xuống nước. Thế nào là bốn? Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy, sợ hãi về cá dữ. Này các Tỷ-kheo, bốn điều đáng sợ hãi này chờ đợi những ai lội xuống nước. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn điều đáng sợ hãi này, ở đây, chờ đợi những người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này. Thế nào là bốn? Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy, sợ hãi về cá dữ.
Tu tập tha thứ là giải tỏa cảm xúc của chính bản thân và tìm ra ý nghĩa cuộc sống trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất. Bạn thực hành tha thứ để giải thoát bạo lực nội tại của sân hận, nhưng không từ bỏ sự theo đuổi các hành động thiện. Thực ra, khi có lòng tha thứ, bạn sẽ có cái nhìn thông thoáng, giúp bạn có được sự bình an dài lâu bằng các phương tiện thiện xảo.
Bất cứ ai cũng muốn mình hạnh phúc, không ai muốn mình gặp phải bất hạnh khổ đau. Nhưng không phải ai cũng được như ý mình. Cuộc sống có muôn mặt, muôn sắc thái, muôn hình vạn trạng mà đâu đâu cũng không giống nhau. Sự thành công hay vấp ngã, giàu có hay nghèo khổ...đều có sự khác biệt nhau. Nên nói mỗi người có mỗi hoàn cảnh, không ai giống ai, chỉ có phần ít giống nhau về hình thức, nhưng nội sự lại khác hoàn toàn. Và hạnh phúc là sự xây dựng dựa trên niềm tin, thái độ tích cực đối với cuộc sống.
Bài giảng tại Khóa tu Học PG Úc Châu 19 Canberra 30-12-2019
Thời pháp do TT. Minh Thành – Phó trụ trì Tịnh xá thuyết giảng như “lì xì Pháp bảo” gửi đến Phật tử nhân dịp đầu xuân Canh Tý – 2020.
Giữa trời giữa đất bao la Một cành thiên tuế thăng hoa núi rừng Ngàn năm sương khói rưng rưng Thương đời thương cả chín tầng thinh không Thương quê hương mẹ Lạc Hồng Trường Sơn chữ ‘S” Tiên Rồng hạo nhiên Ngàn năm thiên tuế nhiệm huyền Ngàn năm nhật nguyệt ru hiền xưa sau Ngàn năm thiên tuế mật đào Ngàn năm mạng mạch dạt dào thiên thu!
Để tránh được sự ngã mạn tự kiêu thì người Phật tử cần phải học đức tính khiêm hòa. Nhờ đức tính khiêm hòa mà việc tu hành của mình dễ dàng tiến bộ. Sống với tâm khiêm hòa, đời sống mình sẽ phù hợp với đạo lý chân thật, gia đình sẽ êm ấm an lạc, mọi người đều hoan hỷ hòa đồng, lấy tôn trọng và yêu thương mà đối đãi. Và, chỉ khi nào ý thức được tính tàm quý của mình, sống có chánh niệm, thì lúc ấy mới nhận ra “cái tôi chẳng là gì cả”, bấy giờ tinh thần lục hòa mới rõ bày làm tiêu tán đi cái ý nghĩ “mặc-kệ-nó”.
Quán niệm Từ bi: Thấy nỗi khổ của chúng sanh trong luân hồi sanh lòng thương xót, tìm nhiều phương tiện để giúp đở họ. Thấy sự mê lầm của mình và người dẫn đến sầu, bi , khổ, ưu và não, thực hành lời Phật dạy để chấm dứt mê lầm. Quán niệm Trí huệ: Quán niệm nguyên nhân sanh hóa vũ trụ, óan thân, tốt xấu, cao thấp; quán niệm thực tướng của các pháp để vững tiến trên con đường giải thóat.
Giữ thân trong sạch hạnh phúc biết bao Giữ miệng trong sạch hạnh phúc biết bao Giữ ý trong sạch hạnh phúc biết bao Thân cùng khẩu ý trọn lành Xa lìa tội lỗi gần cành hoa sen
Bài giảng tại Chùa Pháp Bảo vào ngày 15-12-2019
Vấn đề “Hộ pháp” nó quan trọng ở chỗ người tại gia (tức hàng Cư sĩ Phật tử) thành thực bộc lộ tín ngưỡng của mình và có tinh thần gánh vác trách nhiệm, phối hợp với những hoạt động dù nhỏ nhưng thực tế, dũng mãnh. Chính đó, Phật pháp sẽ càng ngày càng xán lạn huy hoàng, không những với những hình thức đồ sộ mà còn với những sự cải hóa tốt đẹp đối với toàn diện của đời sống con người.
Thượng tọa Giác Hoàng chia sẻ nên thống nhất vấn đề dẫn chương trình giữa các lễ hội, đó là chia sẻ của nhiều đại biểu tại tọa đàm khoa học “Nghệ thuật diễn thuyết và xướng ngôn trong lễ hội Phật giáo” diễn ra cuối tuần qua tại TP.HCM. Theo đó, đã đến lúc cần phải xây dựng và ban hành bộ quy chuẩn trong tổ chức sự kiện Phật giáo làm tài liệu chuyên môn cho tăng ni tham khảo.
Tập khí là thuật ngữ của Phật giáo. Tiếng Phạn, Pali: Vàsana. Tập khí còn có những tên gọi khác như: phiền não tập, dư tập, tàn khí, chủng tử. Hai chữ nầy nguyên là từ ngữ Hán Việt
“ Này các Tỷ-kheo! Thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo! Ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập niệm giác chi... trạch pháp giác chi... tinh tấn giác chi... hỷ giác chi... khinh an giác chi... định giác chi... xả giác chi, y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các Tỷ-kheo! nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não có thể khởi lên”.
Nước Úc - một châu lục xanh và thơ mộng xảy ra thảm họa cháy rừng khiến hơn 27 người tử vong, nhiều người còn bị mất tích, gần 6 triệu ha rừng bị xóa sổ, gần nửa tỷ động vật quý hiếm và hoang dã đã bị thiêu chết.Tối 12-1, đàn lễ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát đã diễn ra tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh, TP.HCM) để cầu nguyện, chia sẻ nỗi đau mất mát của người dân Úc và cầu nguyện cho các chúng sanh đã không may chết thảm trong hỏa hoạn này được nhẹ nhàng tái sanh về cảnh giới an lành. Sau khi dâng hương, đảnh lễ Tam bảo, Trưởng lão HT.Giác Tường, UVTT HĐCM và HT.Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS, trụ trì tịnh xá đã có lời khai thị và chứng minh cho buổi lễ, đồng nhất tâm cầu nguyện mưa thuận gió hòa, âm siêu dương thới. Trong giây phút trang nghiêm thanh tịnh, với một lòng hướng về nước Úc, chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử đã trì tụng phẩm kinh Phổ Môn, kinh Từ Bi để cầu nguyện, thực tập phát khởi tâm đại bi, góp năng lượng xoa dịu vết thương trên thân tâm, hàn gắn những vết thương hận thù, gởi tâm thành và an bình tốt đẹp đến mọi người và mọi loài.
Không trời, không đất, không ta Không sương, không khói, không tà...áo bay Một ngày đọng lại heo may Tôi, ta, tao...để có ngày ảo mơ ! Chấp ta, tôi, tao...ỡm ờ Để ôm lầm tưởng hững hờ ngàn năm !
Tứ Niệm Xứ là một pháp hành Thiền do chính Ðức Phật xưa đã đích thân chỉ dạy cho các đệ tử. Nhờ hành theo đó, các đệ tử đã giải thoát đắc quả vô sanh (A La Hán). Cũng một phần do đó mà một số người theo Ðại Thừa đã bỏ qua và lãng quên pháp hành này, cho rằng đó là pháp Tiểu Thừa. Phật pháp không có đại hay tiểu, có chăng là do chính chúng ta ưa phân biệt đặt ra mà thôi.
Thầy thứ nhất thì nói rằng sự dâm dục là khổ hơn hết; thầy thứ nhì lại cho sự đói khát là khổ hơn hết; thầy thứ ba thì nói sự giận hờn là khổ hơn hết; thầy thứ tư thì nói sự sợ hãi là khổ hơn hết.
Yếu đuối là một trạng thái thiếu hẳn sức mạnh thể chất hoặc tinh thần. Người yếu đuối không chỉ là người yếu ớt về mặt cơ thể mà còn là người thiếu sức mạnh trong tâm. Đôi khi vẻ mạnh mẽ bên ngoài chỉ là lớp vỏ bọc che đậy sự yếu đuối bên trong. Có những chàng trai rất cao to, lực lưỡng nhưng lại dễ ngã gục khi chia tay người yêu và òa khóc bên mẹ như một đứa trẻ. Bên cạnh đó, ở bệnh viện, chúng ta thấy có những em bé tuổi đời còn rất nhỏ, thân hình mong manh nhưng lại có sức mạnh phi thường chống chọi cùng bệnh tật. Tâm yếu đuối có thể xảy ra ở mọi đối tượng từ trẻ nhỏ cho đến thanh niên hay người lớn tuổi. Người mang tâm bệnh này thường không có lập trường, dễ bị dẫn dắt bởi lời nói ra nói vào của người khác, không đủ sáng suốt, mạnh mẽ để tự đứng vững. Vì tâm hay dao động nên người không phân định được phải trái, trắng đen, thường hoang mang không biết đi đường nào là đúng để rồi cuối cùng quyết định theo ý tác động của người khác.
Trong thời đại được gọi là văn minh như hiện nay vẫn xuất hiện không ít những người tự xưng là giáo chủ, thánh chủ, thượng sư hay đạo sư. Có người tự cho rằng được thánh nhập, chỉ cần theo họ tu bảy ngày mở bảy luân xa là đắc đạo thành tiên thánh rồi dùng nhiều cách thức mê hoặc, dẫn dụ người đi theo vì nhiều mục đích khác nhau. Điều này ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, trong đó có cả những Phật tử hiền lành chất phác.
Biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng cá nhân chúng sinh. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều chúng sinh. Cùng sinh ra trong một gia đình, sống chung một đất nước, nói cùng một ngôn ngữ, người thích cờ bạc thì chỉ muốn giao du với người chơi cờ bạc, còn kẻ ham rượu chè thì lân cận ăn chơi với người uống rượu. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, cộng nghiệp đưa đẩy con người thân cận, kết bạn với nhau và biệt nghiệp khiến chúng ta có dáng mạo, tánh tình, năng khiếu và trí tuệ khác nhau.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm, quận Tân Bình vào ngày 16/10/ 2016
Một là trí tuệ do sự thu thập. Trí tuệ thứ hai là Tư Huệ. Trí tuệ thứ ba là trí tuệ đến từ sự tu tập, là trí tuệ này gắn liền với đời sống, trí tuệ này không phải do suy diễn hay do học hỏi mà trí tuệ này đến từ niệm và định, và đó là những trí tuệ rất chắc rất thật
Nhằm chia sẻ giúp đỡ những người dân nghèo có hoàn cảnh sống khó khăn sau cơn bão số 5 và số 6 ở các tỉnh miền Trung được một tinh thần lạc quan và ổn định hơn trong cuộc sống, đồng thời giúp cho những người dân nơi đây có điều kiện đón xuân Canh Tý – 2020 trong sự vui tươi, ấm áp và hạnh phúc. Trên tinh thần đó, từ ngày 18-21/12/2019 (nhằm 23-26/11/Kỷ Hợi), chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ do HT. Giác Pháp – Phó Ban Nghi lễ Trung ương, Chánh Thư ký Hệ phái; TT. Minh Lộc – Phó Ban Từ thiện Xã hội Trung ương, Trưởng Ban Từ thiện Hệ phái làm trưởng đoàn đã hướng dẫn chư Tăng và 60 Phật tử đến thăm và tặng quà cho người dân nghèo tại 04 tỉnh: Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam.
Từ tâm thương khắp chúng sanh Trai diên phẩm vật lòng thành bày ra Thỉnh mời trên dưới gần xa Hương linh tất cả đến mà thọ trai Hướng về giáo pháp Như Lai Quy y tu tập ngày mai an lành.
"Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Ta (Phật)". Từ đấy, thấy Duyên khởi triệt để quả là một cái thấy của một vị Phật. Thấy Duyên khởi là thấy sự thật Vô ngã của các pháp (hữu vi và vô vi), đây là cái thấy độc đáo nhất trong lịch sử tôn giáo và triết học xưa nay. Chính Vô ngã là nét đặc thù của giáo lý Phật giáo, khác biệt hẳn với mọi triết thuyết, tín ngưỡng của thế gian: Giữa khi 62 học thuyết của Ấn Độ đương thời và giữa khi nhân loại đang chấp thủ ngã và ngã sở (Ta, của ta) để chìm sâu vào sinh tử thì Đức Phật nói lên tiếng nói Vô ngã (không phải ta, không phải của ta).
Chúng ta thường bị nhiều thứ ràng buộc từ đời sống, chịu sự chi phối không những đối với cảm thụ vật chất mà còn những quan hệ về nhận thức, tư tưởng khởi nguồn tác động từ bên ngoài và cả bên trong chúng ta. Sự va chạm và phát sinh cảm giác khổ/lạc hay những tư duy đối lập không ngoài sự truy cầu hướng ngoại của tâm; khi tâm thụ động đối với ngoại cảnh là lúc tám ngọn gió đời (bát phong) thổi tâm chúng ta lung lay với những: được/mất, nhục/vinh, khen/chê, khổ/vui (lợi/suy, hủy/dự, xưng/cơ, và khổ/lạc) không lúc nào ngơi.
Bốn pháp trên là bốn Dự lưu chi phần, người thành tựu được bốn pháp này là bậc Thánh Dự Lưu, vị ấy không còn bị thối đọa, tức là không bao giờ rơi vào bốn đọa xứ: Địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ và A-tu-la. Suy nghiệm về “hữu học” thì có hai loại hữu học, phàm hữu học và thánh Hữu học. Bậc Hữu học trong kinh Căn bản pháp môn ám chỉ Thánh Hữu học. Phàm hữu học có thể rơi vào đọa xứ, nhưng thánh Hữu học không thể rơi vào thối đọa.
Thân như Bồ-đề trong sương Tâm như gương sáng vô thường đẹp xinh Ngày đêm soi chiếu sửa mình Chớ để bụi bám tâm linh lu mờ! Không gian lặng lẽ như tờ Về phòng riêng cứ lơ mơ u hoài Thánh ý thật khó lường thay Được hay không…ắt ngày mai tỏ tường
Như người ta nhận thấy ra rằng Phật và Tăng là bậc đã giải thoát xuất gia thanh tịnh, không thế nào ở trong nhà thế một ngày hay đêm. Bởi tâm của các Ngài đã quen sự yên lặng trầm mặc, các Ngài chẳng còn thấy nghe việc đời, tâm ấy như đã khắc kỵ tương đối với cõi đời, các Ngài đã xuất gia rồi thì đâu còn nhập gia luân hồi trở lại. Vả lại cũng không ai cư sĩ mà dám ép buộc cầm mời các Ngài để đặng phá hại đạo Phật. Đành rằng khi xưa cũng có lắm kẻ cư gia, vì sự mến mộ Tăng hoặc Ni thái quá, lắm kẻ muốn rước thỉnh Tăng hay Ni vào ở luôn trong nhà của mình, kẻ ấy tính ngăn ra một căn nhà để làm phòng cho các Tăng hoặc Ni ở đó với cư gia, khác nào là sự cầm tù nhốt trói các Ngài lại, để đặng làm tội phạt khổ các Ngài không cho tu học. Những kẻ ấy cũng là vọng tâm lành thái quá, mà không hay sự tội lỗi về sau. Muốn được riêng ích kỷ cho phần mình, hoặc mình sẽ được phước cúng dường riêng, không muốn cho Tăng hoặc Ni đi khất thực chia phước chung cho tất cả hay cũng là một mình muốn cho Tăng Ni ở chung gần khít một bên, để nhắc nhở tâm mình mỗi ngày, cùng dạy học tu cho một mình mình.
Bài giảng tại Montreal, Canada - 21/04/2018
Thuyết Nghiệp của Phật giáo được hình thành trên cơ sở tuệ giác của Đức Phật (trí tuệ giác ngộ thấy biết rõ nguyên lý của vũ trụ vạn hữu, chân tướng của sự vật hiện tượng, con đường vận hành của các pháp, bản chất của đời sống), có thể lý giải những nghi vấn, thắc mắc mà con người chưa tìm ra lời giải đáp.
Với cái nhìn duyên sinh và vô thường, không có định nghiệp được phán quyết bởi ai khác ngoài suy nghĩ, lời nói và hành động của chính mỗi người. Không có gì là cố định mà luôn trong quá trình chuyển hóa. Người học Phật nhận thức như vậy để sống tích cực và thiện lành, để khi cái chết đến không trở thành nỗi ám ảnh, mà chỉ là một phần tự nhiên tất yếu của sự sống. Dù không hoàn hảo, nhưng ý chí hướng đến sự tốt đẹp không bao giờ gián đoạn, vượt lên những hữu hạn, tính ích kỷ hẹp hòi thông thường.
“– Ở đây, này Thiên chủ, Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng, nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Này Thiên chủ, nếu Tỷ-kheo được nghe như sau: “Thật không xứng đáng nếu có thiên vị đối với tất cả pháp”. Vị ấy biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả pháp, vị ấy biết một cách rốt ráo tất cả pháp. Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy nên không chấp trước một vật gì ở đời. Do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa”. Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn, khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người”.
Chúng sanh ai mà không có định, hoặc nhiều hay ít, hoặc trong giấc ngủ yên. Nhưng bởi sự sanh ra từ nhỏ tới lớn, là ở trong vật chất, trong cái ăn, mặc, ở, bịnh, mà vật chất tứ đại thì vô thường thay đổi biến hóa. Chúng ta mảng quanh quẩn đảo lộn mỗi ngày, còn có đâu giờ phút rảnh rang, mà xem xét lại, coi cái sống, cái biết cái ta, nó còn hay mất, sống hay chết, lớn hay nhỏ ra sao? Nào ta có cần biết nó định hay không định. 
Bài giảng tại Giác An Tịnh Xá (Garden Grove - ngày 14/01/2018)
"Hãy làm chủ tâm mình, ta sẽ làm chủ cuộc sống Hãy làm chủ vận mệnh của mình, vì không ai khác có thể thay đổi được nó, ngoài chính mình Hạnh phúc không của riêng ai, mà mỗi cá nhân đều có khả năng thực hiện Cái này có mặt để cái kia có mặt. Cái này sinh để cái kia sinh. Cái này diệt cái kia cũng diệt".
"Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục nhập sinh; do lục nhập, có xúc sinh; do xúc, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khỗ uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi". "Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt; ...; do sinh diệt nên lão tử, sầu bi, khỗ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khỗ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt".
Ăn chay thực sự không phải là một điểm đặc thù của đạo Phật vì nhiều tôn giáo khác cũng chủ trương ăn chay, thí dụ như trường hợp đạo Ja-in của Ấn độ. Nhiều người không theo Phật giáo hoặc bất cứ một tôn giáo nào cả nhưng họ vẫn ăn chay rất nghiêm túc, trong số này có nhiều người Tây phương. Trái lại một số người Phật giáo thì lại ăn thịt cá. Như vậy ý nghĩa thực sự của việc ăn chay theo tinh thần Phật giáo là gì?
Chánh Niệm là sự tỉnh giác, là sự chú tâm đến những gì đang xẩy ra trong giây phút hiện tại, một cách vô tư không phê phán hoặc so sánh. Chánh niệm không bị mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cố gắng lẫn tránh những trạng thái tâm không tốt cũng không đeo bám theo sự dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó chịu. Một thí dụ để phân biệt vọng niệm với chánh niệm là bất chợt chúng ta nhớ về một người bạn cũ thì đó là hồi ức (vọng niệm hay thất niệm) nhưng sát na sau chúng ta nhận biết mình đang nhớ về người ấy thì đó lại là chính niệm.
Như vậy, này Ānanda, Ta đã giảng Vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh, đã giảng đạo lộ của bậc hữu học, đã giảng bậc Thánh, các căn được tu tập. Này Ānanda, những gì một bậc Đạo sư phải làm, vì lòng từ mẫn, mưu cầu hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy Ta đã làm cho các ông. Này Ānanda, đây là những gốc cây, đây là những chỗ trống. Này Ānanda, hãy thiền tư, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Đây là những lời giáo giới của Ta cho các ông.
Về chữ hòa giáo lý Phật dạy cả chúng sanh hay hơn hết, Lão tử dạy xã hội hay hơn hết, Khổng tử dạy gia đình hay hơn hết nhưng mỗi vị đều  có dạy cả ba pháp và chỉ giữ riêng một lớp sở trường để dắt chúng sanh đến đạo như nhau, nên gọi là “Tam quy hiệp nhất”, ba giáo một nhà cùng nhau chú trọng có một chữ “Hòa” . Mà hòa là đạo, đạo là trung, trung là kết quả. Đó là chữ hòa trọn vẹn. Cũng như trong Chơn lý Tâm số 21 đã thiết kế một danh sách khá dài bao gồm Tam giáo Nho – Lão – Phật trong minh triết phương Đông: “Kìa như khi xưa, đức Khổng Tử dạy nhơn đạo, lấy chữ “Nhơn” làm tâm. Đức Lão Tử lấy cái “Không” làm tâm, người tu kẻ lấy “Giới” làm tâm, kẻ thì lấy “Định” làm tâm, kẻ thì lấy “Huệ” làm tâm. Phật thì lấy “Chơn” làm tâm, Trời thì lấy “Thiện” làm tâm ... Có kẻ lấy “Nghĩa” làm tâm, người lại lấy “Lễ” làm tâm, kẻ lấy “Trí” sự học, cái biết làm tâm, người lấy chữ “Tín” làm tâm. Đó là chữ Tâm.
Đạo đức Phật giáo y cứ vào giới luật. Nếu xem giới luật là những nguyên tắc đạo đức mang tính bền vững, ổn định, không thay đổi, thì yêu cầu từ thực tiễn đời sống đòi hỏi cần có sự bổ sung những chuẩn mực đạo đức mang tính hỗ tương. Những chuẩn mực đạo đức bổ sung đó, theo sự phân định của một số bộ luật Phật giáo, thì đôi khi được xem là giới không quan trọng (khinh giới), có lúc được xem là những phép ứng xử (học pháp) giữa người với người.
Thập nhị nhân duyên là phép tu hành của Duyên giác thừa, phép này chủ yếu quán sát tất cả các sự vật, cho đến luân hồi, đều do nhân duyên mà phát khởi, nhân duyên hội họp thì gọi là sanh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, sự thất vốn không có cái gì sanh, cái gì diệt cả.
Lễ khai mạc được diễn ra dưới sự chứng minh của Chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Chư tôn đức giáo phẩm Hệ phái, HT. Giác Giới – Phó Thư ký HĐCM GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Cầu – Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Thích Niệm Thới – Ủy viên HĐTS GHPGVN, Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Tây Ninh; HT. Thích Huệ Tâm – Phó Trưởng ban Thường trực kiêm Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni GHPGVN tỉnh Tây Ninh; HT. Giác Hùng – Giáo phẩm Hệ phái, Đệ nhất chứng minh Giáo đoàn III; HT. Giác Pháp – Ủy viên HĐTS, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN, Giáo phẩm kiêm Chánh Thư ký Hệ phái; HT. Minh Bửu, Ủy viên HĐTS GHPG VN, Phó ban Giáo phẩm kiêm Trưởng ban Tăng sự Hệ phái; HT. Giác Tuấn – Chứng minh BTS GHPGVN Quận 6, Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự trưởng Giáo đoàn VI cùng đại diện chư Tôn đức Giáo phẩm lãnh đạo Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Tây Ninh, Ban Trị sự GHPGVN huyện Tân Biên, cùng chư Tôn đức Giáo phẩm lãnh đạo các Giáo đoàn và sự có mặt của 115 vị hành giả đã trở về tham dự Khóa tu.
Pháp tu căn bản của Tổ sư là: “Thân trong sạch ấy là xứ Phật, Miệng trong sạch ấy là pháp Phật, Ý trong sạch ấy là con Phật, Tâm trong sạch ấy là đức Phật”. Ngài dạy, mình đi tu phải giữ thân nhẹ nhàng, trong sạch, có nghĩa là phải giữ giới đã thọ trì cho trong sạch. Con người mình có 3 phần: thân, khẩu, ý. Thân thì có đầu, mình, tay chân. Khẩu là miệng để ăn uống, nghe nói, hễ mình tập tu thì giữ cái sự yên tịnh của miệng. Pháp Phật thanh tịnh, vắng lặng, chơn như. Đặc biệt có bộ não là ý của mình. Cho nên những gì mình nghĩ thì tu, đừng để ý đọng lại những gì xấu ác, quấy.    Ngài nhấn mạnh: vị nào giữ được thân trong sạch là xứ Phật của mình, miệng trong sạch là pháp Phật của mình, ý trong sạch là con Phật của chính mình. Khi có thân khẩu ý trong sạch thì tức có hạt giống tâm bồ đề. Cho nên ngoài thân khẩu ý của mình, mà tâm trong sạch thì sẽ ngộ đạo, có sự yên vui. Cho nên nếu gìn giữ được 3 nghiệp, thân, khẩu ý hay nói cụ thể là gìn giữ được Giới - Định - Tuệ của chính mình. Đó là những lời Tổ dạy rất ngắn và cô đọng.
Hòa thượng cho rằng, đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni xuyên suốt thời gian đi giáo hóa, Ngài không nói gì khác hơn ngoài 2 điều: Khổ và đoạn tận khổ. Trong trường hợp khác, Ngài nói giáo pháp của Ngài giống như: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn mà thôi”. Toàn bộ giáo lý đức Phật thì chỉ có 1 vị giải thoát. Giải thoát cái khổ chứ không giải thoát cái gì khác. Nếu chúng ta chưa nắm được cái khổ, chưa biết khổ thì khó bề đoạn tận khổ. Chúng ta chưa thấy được cái khổ thì khó mà đoạn tận khổ. Đồng thời Hòa thượng cũng chỉ ra, Đức Thế Tôn nói do vì không giác ngộ được Tứ Thánh đế, ta và các ngươi bị quanh đi quẩn lại trong 3 cõi khổ trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Vì thế vị Bác sĩ không trị được bệnh, thầy lương y không trị được bệnh là vì không đoán được bệnh, không định được bệnh. Nếu như định được bệnh, chúng ta mới có thể tìm cái phương án dứt bệnh được. Và phải tìm cái nguyên nhân và có lòng tin bệnh này trị được. Vì có lòng tin nên mới tìm phương án để đối trị. Đức Thế Tôn cũng thường dạy, Ta thuyết pháp để đoạn trừ các lậu hoặc cho người thấy, cho người biết, chứ không phải cho người không thấy, cho người không biết.
Về chữ hòa giáo lý Phật dạy cả chúng sanh hay hơn hết, Lão tử dạy xã hội hay hơn hết, Khổng tử dạy gia đình hay hơn hết nhưng mỗi vị đều  có dạy cả ba pháp và chỉ giữ riêng một lớp sở trường để dắt chúng sanh đến đạo như nhau, nên gọi là “Tam quy hiệp nhất”, ba giáo một nhà cùng nhau chú trọng có một chữ “Hòa” . Mà hòa là đạo, đạo là trung, trung là kết quả. Đó là chữ hòa trọn vẹn. Cũng như trong Chơn lý Tâm số 21 đã thiết kế một danh sách khá dài bao gồm Tam giáo Nho – Lão – Phật trong minh triết phương Đông: “Kìa như khi xưa, đức Khổng Tử dạy nhơn đạo, lấy chữ “Nhơn” làm tâm. Đức Lão Tử lấy cái “Không” làm tâm, người tu kẻ lấy “Giới” làm tâm, kẻ thì lấy “Định” làm tâm, kẻ thì lấy “Huệ” làm tâm. Phật thì lấy “Chơn” làm tâm, Trời thì lấy “Thiện” làm tâm ... Có kẻ lấy “Nghĩa” làm tâm, người lại lấy “Lễ” làm tâm, kẻ lấy “Trí” sự học, cái biết làm tâm, người lấy chữ “Tín” làm tâm. Đó là chữ Tâm.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 27/4/2014
Hòa hợp là tụ họp với nhau trong thuận thảo, không tranh chấp, không xung đột. Một cộng đồng hòa hợp luôn ở trạng thái ổn định, các thành viên không mâu thuẫn nhau nên không tranh chấp không xung đột; hoặc nếu có thì cũng dễ dàn xếp. Hòa hợp là phẩm chất cần thiết cho việc sống chung trong xã hội. Xã hội hòa hợp là điều kiện cần thiết cho ổn định để phát triển và mang lại an lạc. Tương tức là đến với nhau ngay tức thì, là cùng nhau có mặt. Tương tức là một vế của cặp khái niệm tương tức-tương nhập thể hiện giáo nghĩa “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” hay “một là tất cả, tất cả là một” được triển khai trong kinh Hoa Nghiêm, nói lên điều Đức Phật dạy, “cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh” trong giáo lý Duyên khởi. Khái niệm tương tức chỉ cho ta thấy mọi sự vật đều liên hệ mật thiết với nhau, khi một vật bị hư tổn thì mọi vật khác đều bị ảnh hưởng. Hòa hợp và tương tức cần được ứng dụng để góp phần tạo nên sự an lạc cho đời sống xã hội.
Ngài chia sẻ cho hành giả, ta tu là biết phòng hộ, ngang qua kinh tất cả lậu hoặc như Phật dạy hội chúng này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ được đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng dược đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được đoạn trừ đã được kham nhẫn đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được đoạn trừ đã được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được đoạn trừ đã được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu tập được đoạn trừ đã được tu tập đoạn trừ; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống phòng hộ với sự phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.
Giá như tinh thần Từ bi đã từng vang vọng qua những lời dạy của Ðức Phật, ngự trị mọi hành động của con người ngày nay, có lẽ chúng ta không đến nỗi phải sống trong bầu không khí đầy ngờ vực, sợ hãi, ganh ghét, kiêu ngạo, tham lam, thù hận và Si mê, mà chính chúng đã làm cho thế gian này ngày càng trở thành một trại lính và đều đặn lùa chúng ta đến bên bờ của cuộc chiến quyết liệt giữa thiện và ác (Armageddon), trận chiến quyết liệt cuối cùng.
Ý niệm đầu tiên mỗi sớm mai thức dậy là tự nhắc mình, làm thế nào để có thể nuôi dưỡng một trái tim thiện lành? Nếu chỉ nói với chính mình hay ta nói với người khác rằng, “ta nên tử tế, ta nên yêu thương, ta không nên thế này, mà nên thế nọ”, thật ra, là một cách nói suông, sẽ không có tác dụng gì với việc nuôi lớn tâm thiện lành của mình cả. Ta cần phải biết cách thực hành, chuyển hóa tâm thức một cách thiết thực chứ không phải là lý thuyết với những lời đẹp đẽ mang tính hình thức.
Thực ra, lẽ công bằng, bình đẳng và lòng khoan dung đã được nhiều hệ tư tưởng đề cập. Tuy nhiên, bàn về các vấn đề này, Phật giáo có những sắc thái riêng. Do vậy, việc khai thác những khía cạnh của chúng theo tinh thần Phật giáo là một điều cần thiết.
Tu nhân tạo nhiều nghiệp lành ắt sẽ hưởng quả dục công đức tương ứng nơi các cõi trời. Nhưng nếu chỉ làm lành, tạo nghiệp thiện to lớn mà không nương theo Chánh pháp, thậm chí không tin và phá hoại Phật pháp thì sẽ có phước quả cộng nghiệp với thiên ma Ba-tuần. Người đệ tử Phật thì lại khác, song hành với tu tập thiện nghiệp là tin sâu, hộ trì và thực hành Phật pháp, hồi hướng công đức phước báo về sau thành tựu giải thoát luân hồi trong tam giới, lục đạo. Nếu tái sinh làm trời (Dục giới hoặc Sắc giới) hưởng phước vẫn nương theo Chánh pháp tu học, cộng trú với các vị thiên tu hành tinh tấn đến ngày đắc đạo, giải thoát sinh tử luân hồi.
Bài tham luận tại Hội thảo kỷ niệm 35 năm thành lập Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM
Con đường hướng thượng, là con đường tu tập chuyển hóa những nghiệp nhân bất thiện, hướng đến sự đoạn tận khổ đau, đạt đến quả vị giải thoát. Con đường hướng thượng ấy, mỗi người là chủ nhân của chính mình và phải tự mình cất bước.
Kiếp người như ánh sao băng Thoáng qua chợt mất… như rằng mộng du! Ngày ngày tiết chế điều nhu Tự mình quán chiếu tư tu chính mình! Sống là tích dưỡng tâm linh “Thiểu dục tri túc thiện sinh thế trần” (Ít ham muốn, ít khổ tình về sau!)
Khi xưa tại xứ Ấn Độ, thuở Phật sanh tiền, Phật và Tăng là bậc giải thoát tu chơn nên không có thờ phượng. Các Ngài không có bày ra sự thờ phượng bên ngoài, cùng các nghi lễ cúng kiến phức tạp, các Ngài chỉ quí trọng tư tưởng giáo lý. Còn đối với các hàng cư gia hữu lậu tội lỗi thì còn ham mộ đức tin, việc thiện chút ít nơi hình thức, như là tạo xây cốt tượng, cất lập chùa tháp, lễ bái cúng dường, đi viếng các nơi kỷ niệm quan trọng của Phật v.v… Nhưng điều quí trọng hơn hết của cư sĩ là sự học nghe Pháp bảo.
Có chánh mới có định, chánh đạo là năng sanh định quả. Chánh là thiện, thiện là không ác, ác là che mất bản tâm, che mất bản tâm là quên định, cho nên kẻ không định là ác tà loạn vọng rối khổ tơi bời, không đường lui tới. Vậy muốn định thì phải ngăn ngừa ác, và tránh xa chỗ ồn ào, tức là giữ giới luật, tự ta chế ra giới luật cho ta, để bảo tồn định, có định mới không còn phiền não, vô ích tai hại. Thế nên đời sống của ta phải cho có kỷ luật, giới nhiều là định nhiều, giới ít là định ít, không giới là không định. 
 “Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!”
Sám chữ Phạn là Samma, Sám là ăn năn lỗi trước, Hối là chừa phạm lỗi sau. Sám hối là biết lỗi cũ sai lầm nên ăn năn hối hận và nguyện sau này không tái phạm tội lỗi như thế nữa.
Trong mưu cầu kế sinh nhai, những phương tiện thường lại đánh đồng với hạnh phúc, nhiều người đã vi phạm luật pháp, bỏ rơi đời sống đạo đức. Đó không được gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc theo quan niệm Phật giáo phải gắn liền với đời sống đạo đức và sự chuyển hóa tâm linh. Bản chất của hạnh phúc liên hệ đến con đường trung đạo chứ không phải trải qua những nỗi khổ niềm đau để có được nó. Thời gian để đạt hạnh phúc lệ thuộc vào phương pháp và sự hành trì. Nếu đi đúng thì thời gian có thể rất ngắn, bằng ngược lại, có thể phải mất vài chục năm nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Phương pháp hạnh phúc phải gắn liền việc thực hành bát chánh đạo, có lòng tin, sức khỏe, sự trung thực, siêng bỏ ác làm lành, và trí tuệ về sinh diệt của sự vật hiện tượng thì chúng ta mới có được giá trị an lạc trong đời sống hiện tại này.
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 17/11/2019
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 06/09/2015
 Con nguyện hiện thường kiếp nữ nhân,  Bởi bao phụ nữ khổ trong trần.  Tiện bề thân thiện con dìu dắt,  Dầu phải cực lòng lốt phụ nhân.  Con nguyện đời đời độ chúng sinh,  Bao nhiêu cực nhọc cũng cam đành.
... quá trình đào thải tự nhiên trong lộ trình hướng đến thành tựu giải thoát. Trong bối cảnh Tăng già đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn và gặp nhiều thách thức trong công cuộc kiến tạo thanh tịnh, hóa hợp, nếu những “tử thi” này không nhanh chóng chuyển hóa, thực hành phạm hạnh để hòa hợp và thinh tịnh cùng với Tăng già thì nhất thiết Tăng già phải vận động như biển cả; không chấp nhận, không chứa chấp, không dung nạp và quăng tử thi lên bờ.
ạnh phúc, an lạc không nằm ở đâu xa, mà nằm ngay ở trong tâm hồn của ta. Chỉ cần chúng ta dang rộng vòng tay ra, mở rộng quả tim ra đón nhận thì hạnh phúc, an lạc sẽ đến ngay tức khắc chứ không đợi ngày mai, ngày mốt hay sau khi chết.
Sadi Pandita Daraka tuổi còn nhỏ sớm có duyên lành xuất gia. Một hôm, theo thầy là tôn giả Xá Lợi Phất vào làng khất thực. Trên đường thấy một nông dân dẫn nước vào ruộng, một người làm cung đang chuốt tên, và một thợ mộc đang gọt đẽo bánh xe bò. Những cảnh tượng này khiến vị sa di tò mò muốn biết họ đang làm gì. Sau khi nghe lời giải thích, chú sadi bất chợt nghĩ rằng những thứ vô tri mà có thể thay đổi cho tốt hơn được, sao mình không tự chuyển hoá tự thân. Nghĩ vậy vị này xin phép về chùa gia công thiền định và giác ngộ đạo quả không lâu sau đó. Đức Phật dạy kệ ngôn trên để tán thán sự khéo nhận thức của một người hữu duyên, hữu trí.
Khi đối diện với cái chết, bên cạnh những nghiệp thiện và bất thiện chúng ta đã tích lũy trong suốt đời sống đã qua, một nhân tố quan trọng khác quyết định quả báo tái sinh là trạng thái của tâm trước lúc chết (hay còn gọi là cận tử nghiệp). Một trạng thái tâm tích cực - chấp nhận, tĩnh lặng, và tràn đầy tình yêu thương - sẽ kích hoạt những dấu ấn nghiệp tốt và đưa đến một tái sinh may mắn. Một trạng thái tâm tiêu cực không chấp nhận, đắm chấp vào con người hoặc tài sản hoặc sân giận với những gì chúng ta đang gặp phải sẽ kích hoạt những dấu ấn nghiệp xấu, thúc đẩy tâm chúng ta đến một tái sinh không an lành.
Có định trí mới nhớ chứa xa, đựng gồm lớn, nhờ nhớ đựng bao việc quá khứ hiện tại, mà thấy rõ các pháp vị lai, xét rõ được việc đời, nhìn xa được tâm lý, nghe rõ được trình độ, diệt dứt được phiền não, mà chứng đựng an hòa.
Hãy chú tâm vào ngày hôm nay. Nghiệp báo, Từ bi, Vô thường, Tất cả chân lý trong đời sống đều nằm vỏn vẹn trong giây phút ngắn ngủi này. Hôm qua chỉ là giấc mộng và ngày mai, nào ai biết sẽ ra sao? Hãy sống trong hiện tại! -- Kassapa Thera.
Mỗi người ở thế gian đều có trí thức của riêng mình, trí thức cũng có sâu cạn chẳng đồng; nó là vũ khí cải tạo mình và làm lợi ích cho người khác. Nếu như chúng ta dùng trí thức không thích hợp thì có thể tự hại mình và nguy hiểm cho xã hội, còn như biết dung hòa thì mới có thể phát huy hiệu lực và tác dụng; giống như thuốc hay mà uống không đúng bệnh thì biến thành thuốc độc
Trong trần thế, chỉ có đạo Niết Bàn là quý cao hơn cả. Vì sao? Vì Niết Bàn là cảnh giới không có sự già nua, bịnh chết, không đói lạnh, không tai họa nước lửa..., không oan gia, không trộm cướp, không dục vọng ân ái, không lo buồn hoạn nạn, không tất cả những sự khổ sở đau đớn, cảnh ấy là diệt độ, diệt độ không phải là một sự chết, nhưng đấy là sự giải thoát tự tại thôi. Cảnh giới ấy hoàn toàn yên vui, một niềm vui thanh tịnh vô biên, có thể kiến lập cảnh ấy trên trần thế riêng cho mình, và cho chung tất cả muôn loài. Vậy nên người phải tự lo tu lấy, tự tỉnh lấy, người hãy tự thương lấy người.
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Phú (Tân Bình) vào ngày 27/02/2011
Phật giáo đặt mục đích tối hậu vào sự đạt đạo, đó là một đích đến vượt lên trên cuộc đời nhưng không xa lìa cuộc đời. Trên hành trình hướng đến mục đích cao cả đó, cuộc đời là nền tảng cho sự tu tập cũng như ruộng đồng là nơi nông dân cày cấy để có mùa màng thu hoạch.
Chiều ngày 01/11/2019, khóa Bồi dưỡng Kỹ năng lãnh đạo, quản lý thông tin truyền thông Phật giáo toàn quốc năm 2019 tổ chức tại chùa Thiên Châu (đường Huỳnh Văn Nhứt, TP.Tân An, tỉnh Long An) đã cung đón sự quang lâm và chia sẻ của HT. Thích Giác Toàn – Phó Chủ tịch HĐTS, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học GHPGVN với đề tài: “Kinh nghiệm về Thông tin Truyền thông Phật giáo” cho chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử của 63 tỉnh, thành về tham dự. Mở đầu buổi chia sẻ, Hòa thượng cho biết: Phật giáo Việt Nam đã thành lập hơn 35 năm, đã phát triển và hình thành các tờ báo Phật giáo đầu tiên như: Tạp chí Phật học; Báo văn hóa và Báo giác ngộ được thành lập hơn 40 năm. Sau đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành lập Ban Thông tin Truyền thông (TT-TT) Trung ương, nhằm tạo điều kiện đăng tải thông tin trên các trang mạng xã hội Phật giáo. Với nhu cầu xu hướng công nghệ 4.0, Trung ương GHPGVN đã thành lập thêm trang Giác ngộ Online, Phật sự Online TV .v.v…. Theo đó, các tin tức, sự kiện được thể hiện qua các bài viết, clip video giúp truyền tải những nét đẹp của nền văn hóa Phật giáo, đáp ứng nhu cầu cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử đã tham gia vào Ban TT-TT TƯ, Ban TT-TT các tỉnh thành cần phải tư duy, học tập các kỹ năng đạo đức của người làm báo chí – truyền thông Phật giáo. Do vậy mà, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã cho phép Ban TT-TT TƯ phối hợp các tỉnh, thành tổ chức Khóa tập huấn truyền thông từ năm 2015 đến năm 2019. Đồng thời, Hòa thượng cũng nhắc nhở chư Tăng Ni, Phật tử khi tham gia vào ngành truyền thông Phật giáo phải luôn luôn vững tâm hướng thiện, để xử lý những vấn đề khủng hoảng, việc đúng sai trên các trang mạng xã hội đăng tải. Bởi lẽ, chúng ta là người quản lý truyền thông phải hết sức bình tâm, thực hiện đúng phương hướng tích cực, phát triển văn minh theo chiều hướng Phật giáo. Và xây dựng một nét đẹp Tăng Ni đến với quần chúng, thông qua tấm gương tiêu biểu của chư Tôn đức Giáo phẩm bằng những hình ảnh, sự kiện trong nghi lễ, từ thiện xã hội, hội nghị.v.v…điều này đã tạo nên một bức tranh trong sáng đến quần chúng nhân dân. Hơn nữa, chư Tôn đức lãnh đạo Giáo hội, chư Tôn đức Tăng Ni các tỉnh, thành nên chấn chỉnh lại những sai trái của những cá nhân khi phạm lỗi và phải biết nhận lỗi thông qua Kinh, Luật, Luận. Từ đó, giữ vững sự trong sáng của đạo Phật, xây dựng ngôi nhà Phật pháp trong lòng dân tộc Việt Nam. Khép lại một ngày của khóa Bồi dưỡng, đã giúp cho các học viên của 63 tỉnh, thành tiếp thu thêm nhiều kỹ năng quản lý thông tin và phương pháp xử lý khủng hoảng truyền thông trên cộng đồng mạng xã hội bằng tinh thần từ bi và trí tuệ của Phật giáo.
Còn gặp nhau thì hãy cứ đi/ Đi tìm chân lý - lẽ huyền vi/ An nhiên tự tại - lòng thanh thản/ Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.
Hành giả niệm rải tâm từ có nghĩa là trong tâm đã sẵn có tâm từ, mới có thể rải tâm từ khắp đến tất cả chúng sinh; tâm từ có năng lực càng mạnh, thì rải ra khắp mọi nơi càng xa; tất cả chúng sinh cảm nhận được sự mát mẻ, an lạc càng nhiều. Điều này có thể cụ thể hoá, ví như ban đêm, một người tay cầm cây đèn pin (viên pin còn năng lượng, bóng đèn tốt) rọi đến hướng nào, thì làm cho các vật ở hướng ấy hiện ra và thấy rõ ràng; nếu cây đèn pin thiếu một bộ phận nào, thì ngay chính người ấy cũng bị tối mù tối mịt, còn mong gì rọi sáng được đến nơi nào, thì làm sao thấy được các vật khác.
Đến với giáo dục bằng tinh thần nhập thế là nơi dấu chân xưa của các vị Bồ Tát, lấy cuộc đời khổ đau làm trường rèn luyện, xem nghịch cảnh chướng duyên là tiêu hướng kiên trì, để làm nở hoa giải thoát trên mảnh đất tam giới. Có như thế chúng ta mới làm sống dậy dòng sinh hoạt trí huệ thực chứng của Đức Phật khơi mở hơn 25 thế kỷ qua: "Không xuất thế thì không có gì khả dĩ hơn được cuộc đời, không có gì khả dĩ hướng dẫn được cho cuộc đời và làm đẹp cho cuộc đời. Còn không nhập thế thì không phải là đạo Phật nữa, bởi vì từ bi và trí huệ, bản chất của đạo Phật, trong trường hợp này, sẽ không có chỗ sử dụng".
Đức Phật - người đã đem ánh sáng vào cõi tối tăm, dựng lên những gì đã bị quăng xuống gãy đổ, chỉ đường cho những chúng sanh lạc lối. Ấy vậy nên mỗi mùa Phật đản, người con Phật thấy như Đấng Cha lành trở lại, đem dược liệu quý để chữa trị cho những đứa con mê lầm.
Pháp của Thế Tôn nói ra từ sự chứng ngộ của Ngài, nên pháp học cần kết hợp với pháp hành, hành xong mới hiểu được sự thậm thâm vi diệu của giáo pháp. Nghe pháp thôi cũng tạo nên công đức. Người nghe, người đọc được nghiễm nhiên đã có công đức...
Tu học Phật, không nhất định chỉ giới hạn trong chùa viện. Phật giáo đặc biệt chú trọng tu hành trong đời sống, có thể thực hành pháp Phật trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, việc làm mỗi ngày của tín đồ Phật giáo, từ sáng sớm thức dậy đến đêm hôm nghỉ ngơi, kể cả việc đối nhân xử thế thường ngày, nói im động tịnh, đều phải noi theo Phật Bồ-tát, lấy từ bi làm gốc rễ, phương tiện làm phương pháp, như lý sinh hoạt, như pháp ứng xử, để đạt đến đời người được tự tại, xa khổ đau được an vui.
“Quán tự tại” là một trong những danh hiệu của ngài Quán Thế Âm bồ tát. Danh hiệu đó mang ý nghĩa rằng: Chỉ cần bạn biết quán chiếu chính mình, nhận chân được rõ ràng chính mình, thì ngay giờ phút đó bản thân bạn đã thành tựu được tự tại rồi.
Đức Phật ra đời là một niềm vui lớn cho thế gian, Ngài đã đem lại ánh sáng chân lý để soi tỏ cho chúng sinh thấy rõ lẽ thật của cuộc sống an vui và đau khổ. Có người hiểu lầm Ngài như một vị thần ban phước giáng họa, nhưng thực tế Ngài chỉ là một bậc Đạo Sư, tức vị thầy dẫn đường, chỉ lối cho người thôi. Ngài giác ngộ trước, thấy rõ đâu là con đường đau khổ trầm luân; đâu là còn đường an vui giải thoát, và đem chỉ lại cho mỗii người, song đòi hỏi mọi người phải đi mới đến, không thể ỷ lại, trông chờ vào Ngài. Người học Phật cần hiểu đúng đắn về Ngài, không để hiểu lầm trở thành xuyên tạc.
Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã rút ra kinh nghiệm sống quý giá “Có phước, có đức mặc sức mà hưởng”. Phước đức ấy chính là sự tiếp nối tuệ giác của Thế Tôn, ứng dụng trong đời sống hằng ngày thông qua những biểu hiện thiết thực: có đầy đủ niềm tin, giới hạnh, bố thí và trí tuệ. Niềm tin Tam bảo là cội nguồn của mọi phước đức. Vì ba ngôi quý báu Phật Pháp Tăng là ngọn đuốc sáng soi đường cho mọi nẻo lành. An trú vững chắc vào niềm tịnh tín Tam bảo thì tự khắc chúng ta sẽ thiết lập được đời sống đạo đức, lương thiện và hân hoan với thí xả, mở rộng lòng ra với mọi người. Biết sống với niềm tin, đạo đức và buông xả, sống cho mình và mọi người, sống với an vui hiện tại và tương lai, đó chính là tuệ giác.
Đạo đức Phật giáo nói riêng đều hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả muôn vật, cỏ cây. Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động xoa dịu nỗi đau, cứu giúp những người đau khổ hoặc đoàn kết giữ gìn hòa bình. Ngày nay, thế giới biến động, con người sống trong lo sợ bởi bạo lực hoành hành. Đạo đức của lớp trẻ lại bị biến thoái trầm trọng, Phật giáo cũng như mọi tôn giáo trên thế giới muốn giải thoát con người khỏi đau khổ, và con người cần phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ tham-sân-si, xóa bỏ vô minh, chặt đứt phiền não để vượt qua biển khổ luân hồi. Tình yêu tha nhân trong Phật giáo hay các tôn giáo khác không đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa, như kẻ đói được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn, khuyên can người lầm lỗi... Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ là điều mà bản thân Phật giáo nói chung hay Tôn giáo nói riêng cần phải góp bàn tay nhân ái để xoa dịu, làm lắng đọng nỗi đau, giúp thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ đời thường. Có như thế chính là Phật giáo đã đóng góp giá trị văn hóa đạo đức trong việc xây dựng nhân sinh, xây dựng lớp trẻ trong hiện tại cũng như tương lai được hoàn mỹ.
Cái định hằng có nơi mỗi chỗ, nơi mọi lúc; mắt tai mũi lưỡi thân ý phải định luôn luôn. Ông thầy giáo không định thì chết, người học trò không định thì điên. Ai ai không định thì khổ. Định là giấc ngủ ngon, hay như cái chết sướng. Cho nên định là mùi vị của các sự việc. Có định mới có thành công không thất bại cho mỗi hạng người.
Ngũ giới là năm giới, năm điều khuyến khích, phải giữ của người Phật tử tại gia. Sở dĩ đức Phật đặt ra năm giới, vì Ngài mong muốn cho người Phật tử tại gia hưởng được quả báo tốt đẹp. Người Phật tử không thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới. Người đã quy y là đã bước một nấc thang đầu tiên, nếu không giữ giới có nghĩa là dừng lại tại đó, không tiến bước tới nữa. Năm giới này không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội.
Bất cứ việc làm nào, cũng cần phải có sự chọn lựa thích đáng. Chọn một việc làm có ý nghĩa trong sáng tốt đẹp, đó là con người có ý thức tỉnh ngộ. Khi đã có nhận định kỹ hành động của mình rồi, thì dù cho có gặp khó khăn gian lao thử thách, ta cũng quyết chí kiên tâm vượt qua. Có thế, thì đời ta mới được thăng hoa lợi ích. Ngược lại, khi gặp trở ngại khó khăn, ta chùn bước khiếp sợ, thì muôn đời ta vẫn không tiến bộ được. Là Phật tử khi đi đến chùa tu học, hoặc tụng niệm lễ bái, thì dù cho có ai khen chê, phê bình chỉ trích, ta cũng vẫn an nhiên.
Biết ơn và đền ơn là một trong những đức tính căn bản của người đệ tử Phật. Trong cuộc sống ta hàm ơn rất nhiều, từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều. Theo Thế Tôn, lớn nhất và nhiều nhất, trên hết các ơn đó là ơn pháp. Ai đã từng bế tắc, không tìm được lối ra, không thấy được ý nghĩa cuộc sống dù mọi thứ vật chất xung quanh vẫn đủ đầy thì mới thấy giá trị và mang ơn giáo pháp. Có những giá trị sống thuộc về tinh thần (tâm linh) mà vật chất không thể đánh đổi hay với tới được. Cho nên giáo pháp thường được ví như chiếc bè chở chúng sinh qua sông mê, bể khổ, đến bờ an lạc. Giáo pháp mở ra quan kiến mới, định hình nên một lối sống mới, kiến tạo được hạnh phúc và bình an thật sự con người, nên ơn pháp là hơn hết.
Tin rằng tấm gương sáng đặc sắc của Ni sư Diệu Nhân thời Lý Trần sẽ mãi là ngọn đuốc kỳ diệu về tinh thần, phẩm hạnh tu tập và thân chứng… soi đường, dẫn lối cho thế hệ Ni giới đương đại phát huy mạnh mẽ sứ mệnh hoằng pháp độ sinh trong thời đại văn minh khoa học ngày nay.
Bản chất của mộng là thực hay giả? Nếu chúng ta quán chiếu kỹ càng, chúng ta sẽ thấy rằng mộng không có thực chất. Mộng hiện khởi từ bản chất vô minh của tâm cộng và các duyên phụ trợ khác. Khi tâm ta mất cân bằng, ta sẽ mộng và trong giấc mộng đó, cả mộng và người mộng không có thật. Thậm chí bản chất cuộc đời hiện tại của chúng ta cũng đều là mộng. Khi nhìn vào bản chất của sự vật hiện tượng, ta thấy có hai khía cạnh thật và không thật. Khi tâm thức bị che mờ bởi những xúc tình phiền não, ta sẽ nhìn mọi sự vật hiện tượng đều là bất thiện. Còn khi tâm tỉnh thức, ta sẽ thấy được các khía cạnh tích cực của cuộc sống. Như vậy để quyết định một hành động là thiện hay bất thiện, hoàn toàn tùy thuộc vào các trạng thái tâm thức. Chính các xúc tình tiêu cực như tham, sân, si đã đưa đẩy chúng ta trôi lăn mãi trong trong vòng luân hồi sinh tử.
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 28/8/2016
Cầu nguyện trong đạo Phật không phải là xin Đức Phật ban cho mình điều gì, mà là thể hiện mong ước rồi nỗ lực, phấn đấu để thực hiện ước nguyện đó. Để tránh hiểu lầm, kinh sách Phật giáo thường không dùng từ “cầu nguyện” mà chỉ dùng từ “nguyện” tức phát nguyện, ý nguyện. Ví dụ như: “Nguyện dứt trừ tất cả điều ác, nguyện tu tất cả điều lành, nguyện độ tất cả chúng sinh” v.v…
"Hãy khéo sống chánh hạnh Chớ sống theo tà hạnh Người chánh hạnh hưởng lạc Cả đời nầy, đời sau."
Tứ Chánh Cần là bốn phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo. Bốn phép Tinh tấn ấy là:  1. Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh.  2. Tinh tấn dứt trừ những điều ác phát sinh.  3. Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.  4. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh. 
Thể của định là võ trụ bao la vô cực, không không vắng lặng và tối đen. Tướng của định là chơn như không vọng động, đứng ngừng chết nghỉ, trơ, sựng. Dụng của định là thay đổi tiến hóa an vui giác ngộ và quả linh thần thông. Lý của định là tự nhiên chơn thật. Thân của định là giới, trí của định là huệ, tánh của định là chơn, còn định là tâm của tất cả chúng sanh hay cũng là sự sống sức mạnh và bao gồm tất cả v.v...
Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 31/07/2016
“Người có tính ganh tỵ khổ sở hơn bất cứ một người bất hạnh nào. Bởi vì hạnh phúc của người khác càng lớn bao nhiêu thì nỗi bất hạnh trong anh ta sẽ nhân lên bấy nhiêu lần”.
TÁM VIỆC BIẾT LÀ KHÔNG ƯA NHAU 1.Thấy nhau mặt đổi sắc. 2.Lời nói không ôn hòa. 3.Liếc ngó không thẳng thắn. 4.Nói phải cho là quấy. 5.Nghe người suy bại thì vui thích. 6.Nghe người hưng thạnh thì không vui. 7.Hủy bỏ chê bai việc tốt của người 8.Tán thành việc ác của người.
Nhơn duyên sanh hóa của mỗi quả địa cầu là: trong cái KHÔNG sẵn chứa cái CÓ, tự nhiên vẫn mãi thế, tự bao giờ và bao giờ (cái không đây là ngoài khí, vô hình, không thể chất đụng chạm, hay sự tan hoại, thay đổi hình tướng của vạn vật mà gọi là không. Bằng nếu biểu đem cái không ra xem, thì mắt ta khác nào mù quáng, chẳng thấy cái không là ra sao. Vì không nói được, làm được, tính đo được... mới là không. Không và Có, hai lẽ tương đối. Không là lý, Có là sự, không phải hai, không phải một, sẵn có nơi nhau không bao giờ một hoặc hai, vì vậy mới có cõi đời). Như trên đã nói: Quả địa cầu gồm có bốn chất là: đất, nước, lửa, gió, tức là cái Có, ở nơi Không. Kìa ta thấy trong không có hơi, trong hơi có nước, trong nước có đất, trong đất có lửa, trong lửa có gió, gió là hơi. Bốn thứ ấy nương sanh lấy nhau, làm thành cái Có ở trong cái Không, còn cái Không ở trong cái tự nhiên. Tự nhiên là hết nói luận! Đó là nói về sự, còn về lý thì cái Không ở trong mỗi cái Có, cái Tự nhiên ở trong mỗi cái Không.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 11/09/2016
MƯỜI TRƯỜNG HỢP KHÔNG THỂ KHUYÊN CAN 1. Tham lam che mất lương tri 2. Tham đắm sắc dục 3. Trong cơn giận dữ 4. Kẻ ngang tàn bạo ngược 5. Kẻ nhút nhát 6. Kẻ khờ khạo lừ đừ 7. Kẻ kiêu ngạo buông lung 8. Người ưa tranh đấu 9. Người chấp tập tục si mê 10. Kẻ tiểu nhân.
Tâm ý con người rời đổi mau lẹ trong từng phút từng giây theo với ngoại cảnh. Đức Phật đã dạy: “Tâm viên, ý mã”. “Viên” là vượn, “mã” là ngựa. Tâm người như vượn chuyền trên cây, như ngựa rông nơi đồng nội. Đây là cái tâm chập chờn, lăng xăng, vọng động của con người. Cái tâm khi ma khi Phật. Cái tâm như khỉ như vượn. Cái tâm khó kiểm soát, khó canh phòng. Còn ý của con người thì mênh mông đủ chuyện, mơ tưởng từ đông sang tây, hết quá khứ tới vị lai… Trong nháy mắt ta có thể có đến biết bao nhiêu là ý tưởng dấy lên, chúng tiếp nối nhau cái này sau cái khác, thoáng qua nhanh chóng trong đầu như ngựa tự do chạy trên cánh đồng rộng thênh thang. Chính vì tâm ý sinh diệt quá mau lẹ, nhiều khi ta không nhận ra được sự biến chuyển của nó, nên ta có cảm tưởng như nó không thay đổi gì cả.
Thiện tri thức nhớ ghi lòng/ Xưa nay thanh tịnh một dòng Phạm âm/ Tâm tức Phật, Phật tức tâm/ Tự tánh trong suốt thậm thâm Bồ đề/ Sử dụng tâm ấy thoát mê/ Sử dụng tâm ấy lần về bến xưa.
Cuộc sống này sẽ không còn giá trị khi con người không có tình cảm với nhau. Tình cảm con người được biểu hiện qua tâm lý, cảm xúc buồn vui, thương ghét, giận hờn, lo lắng, sợ hãi, ganh tị, tật đố và tham muốn; hay nói ngắn gọn là bị phiền não tham-sân-si chi phối, sai sử khiến con người không làm chủ được bản thân nên hành động trong mê muội, vô minh, làm những điều xấu ác có hại cho người và vật.
Đạo Phật hướng đến giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn để sống tự tại trong cuộc đời mà làm lợi lạc quần sanh. Quan niệm giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn ở thế giới nào đó và chỉ đạt được sau khi chết là một quan niệm cần đánh giá lại. Vì nói như thế là phủ nhận cuộc đời và giá trị đóng góp to lớn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đồng thời, quan niệm ấy cũng làm cho Phật giáo trở nên siêu hình và xa lánh cuộc đời hiện hữu. Do vậy, nhận thức đúng khái niệm để hiểu đúng và tu tập đúng là quá trình rất cần đối với bất cứ ai tu tập Phật pháp.
Việc thanh tịnh tâm quả là quan trọng đến dường nào, nơi con người từ sáu căn mà trầm luân thì cũng từ sáu căn mà giải thoát. Từ vọng chuyển thành chân, từ mê chuyển thành ngộ. Đó là đạo lộ mà con người cần nương theo. Đức Phật đã chỉ rõ, chúng ta chỉ chuyên cần theo đó mà tu tập ắt có ngày đạt đạo quả.
Những người tu học phải nhận thức rất rõ về tính chất nhân quả tội phước. Cả đời chúng ta làm thiện không biết có đủ để chúng ta chuyển hoá những nỗi khổ, niềm đau hay giúp chúng ta chuyển hoá được những cái nhân tố ác của chúng ta hay không, chứ đừng sanh tâm mà so sánh với những người khác, rồi chúng ta nản chí, bỏ con đường tu thiện của mình.
Luân hồi hình như luôn đi với sanh tử. Luân hồi sanh tử. Nghe cứ rờn rợn. Có cách nào “giải thoát” không? Có đó. Đi tu! Đi tu để giải thoát luân hồi sanh tử. Nghe nói vậy. Làm như tu thì không còn sanh tử nữa, không còn luân hồi nữa, tu thì sống đời đời kiếp kiếp vậy! Nhưng… không còn sanh tử, không còn luân hồi nữa, sống đời đời kiếp kiếp thì… chán chết! Không luân hồi sanh tử nữa thì mọi thứ khựng lại. Trái đất chẳng buồn quay. Chẳng còn xuân hạ thu đông. Chẳng sáng trưa chiều tối. Chẳng vô thường. Chẳng đổi thay. Chán chết! Cho nên luân cứ phải hồi, sanh cứ phải tử. Và bởi vì sanh cứ phải tử nên tử cứ phải sanh. Phải luẩn quẩn loanh quanh vậy mới công bằng, mới phải điệu. Ba cõi sáu đường phải thênh thang rộng mở cho chúng sanh lũ lượt vào ra!
Hương Bi - Trí - Dũng cao thanh, Đuốc còn tỏa sáng pháp minh còn ngời. Truyền thêm động lực cho người, Nối truyền Chánh Pháp muôn đời vĩnh miên
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?  Hãy nôn nó ra, vứt hết đi, không chừa lại một chút gì cả. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi vứt bỏ nó đi. Rồi cõi lòng bạn tràn ngập tình bi mẫn vị tha, thẩm thấu qua từng lỗ chân lông bạn. Hãy hiển lỗ tâm từ vô nhiễm trào dâng thương yêu. Hãy để những ai đến với bạn đều nhận được vầng quang hảo tâm không thể chối từ, cũng như khi rời xa, họ cảm thấy được cảm thông và can đảm hơn để đối mặt với cuộc đời đầy gian truân và nghiệt ngã này. Hãy lắng nghe, hỡi các bạn! Tương tự một ngọn đèn rực sáng tuy bé nhỏ nhưng vĩnh hằng, chúng ta có thể thắp sáng nhiều ngọn đèn nhỏ lại, và nhìn kia! Có thể ta vẫn còn phải xua tan đêm đen tuyệt vọng, những âm u vọng tưởng để đem lại ánh sáng trí tuệ và tình thương vô nhiễm…
Phẫn nộ là hình thái bùng vỡ của tâm giận dữ bất mãn hay lòng sân hận bực phiền. Nó là sự phản ứng thô thiển của tâm thức bị dồn nén trong trạng thái giận dữ bực bội bởi tác động của các hành vi không thích ý hay cảnh ngộ không thân thiện. Chẳng hạn, điều gì mình không ưa thích mà cứ phải “chạm trán”liên tục thì tâm bất mãn bùng phát biến thành phẫn nộ, hoặc trong trường hợp thường xuyên bị kẻ khác chỉ trích tấn công với lời lẽ gay gắt thì sự bực phiền dồn nén trong lòng trào dâng chuyển thành cơn phẫn nộ. Phẫn nộ, do đó, là hệ quả của tâm giận dữ bất mãn bị kích động. Nó là hiện tượng duyên sinh, bộc phát chủ yếu do sự tác động của các yếu tố không thân thiện và môi trường không lành mạnh. Nó là sự phản ứng u tối và bạo loạn của tâm sân hận biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói và hành động thô bạo gắn liền với các hậu quả khó lường .
Sau khi kết thúc đời sống hiện tại, chúng ta sẽ theo nghiệp mà thọ sinh vào cảnh giới tương ứng. Theo tuệ giác của Thế Tôn, sinh về đâu, vui hay khổ đều do nghiệp của mình. Không một đấng thần linh hay thế lực siêu nhiên nào có quyền và có thể can thiệp vào quá trình này.
Chơn lý của võ trụ là yên lặng. Yên lặng là lẽ thật là huyền bí, là không vọng động, nên cũng gọi là chơn như hay sự kín đáo. Định tức là mật, trong mật định có chứa linh giác và thần. Cho nên gọi định năng sanh chơn huệ và giới. Định là chánh, loạn là tà, nên mới có tên chánh định; và cũng là có chánh mới có định, chánh định là niết-bàn, tâm người trở lại chánh định chơn như sau khi toàn giác, gọi là Như Lai hay là Phật. Thế nên chánh định là chỗ sanh ra tất cả chúng sanh vạn vật và các pháp, mà cũng là chỗ trở về, hay chỗ đến, nghỉ ngơi hưu trí của chúng sanh, vạn vật và các pháp kia vậy.
Chánh Mạng không phải là sự chỉ dẫn cho tất cả những nghề tốt lành để nuôi thân, nhưng không có Chánh Mạng thì không có tất cả những những nghề tốt lành được tồn tại.
Nếu một người kết hợp cả sáu hoạt động này, từng bước từng bước đưa nó trở thành một thói quen trong đời sống hàng ngày của một người, thì sau đó đời sống bắt đầu, bằng chính nó, và sẽ ngày càng trở nên có định hướng hướng về lợi lạc của tất cả chúng sinh...
Cuộc sống của chúng ta chính là chuỗi dài của những gì đã trôi qua, đang trôi qua và sẽ trôi qua. Chắc hẳn rằng quá khứ của chúng ta, ai ai cũng có những tháng ngày rực rỡ và bên cạnh đó cũng sẽ có những lỗi lầm khiến chúng ta phải hối tiếc. Có những lỗi lầm khiến chúng ta phải ăn năn, ray rứt, và thậm chí mong muốn có một phép màu nào đó để quay lại quá khứ khi chúng ta đã làm tổn thương ai đó hoặc đã để ai đó làm tổn thương chính mình. Chúng ta cũng sẽ khát khao được quay lại khoảnh khắc mà mình đã đưa ra một quyết định ngu ngốc khi quá vội vã hay chưa kịp cân nhắc kỹ lưỡng.
Tu tập Bát quan trai giới trọn vẹn, hành giả gặt hái được rất nhiều lợi ích. Trước mắt, người cư sĩ có cơ hội thực tập xuất gia cả thân lẫn tâm trong một ngày đêm. Nhờ đó, họ đã thân chứng pháp vị an lạc, ly dục và giải thoát, làm nền tảng cho Thánh vị A La Hán. Mặt khác, Đức Phật dạy: “Thực hành trai giới có quả lớn, có lợi ích lớn, có sáng chói lớn, có ánh sáng lớn” (Kinh Tăng Chi Bộ). Người tu tập Bát quan trai giới, đầy đủ tám chi, khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên các cõi Trời, cộng trú với chư Thiên, có đầy đủ phước báo và thọ lạc, mạng sống lâu dài. Trong kinh Ưu Bà Tắc Giới, Đức Phật dạy: “Công đức tu tập trai giới là không thể nghĩ bàn, tất cả mọi tỗi ác đều bị tiêu diệt. Người nào thọ trì Bát quan trai giới, người ấy sẽ được niềm vui vô lượng của cõi người và cõi trời. Chính người đó đang dùng chuỗi ngọc anh lạc của Vô thượng bồ đề để trang nghiêm tự thân, vì vậy mà họ thành đạt vô lượng công đức”.
Đức Phật là bậc giác ngộ với đầy đủ phước đức và trí tuệ. Ngài có tấm lòng từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sinh. Ngài không chỉ tìm kiếm giải thoát cho riêng mình mà còn chỉ dạy người khác phương pháp thực hành, tu tập để được giải thoát theo, Ngài có đủ khả năng giúp người khác hiểu rõ, thực chứng điều đó. Nói vậy không có nghĩa là đức Phật có thể ban cho người khác sự giác ngộ, Ngài chỉ có thể chỉ dạy cho chúng sinh thấy một con đường, và những ai muốn được giác ngộ thì phải tự mình bước đi trên con đường đó, không ai có thể làm được việc ấy giúp mình cả.
Để không còn khổ đau, chúng ta nên luôn nghĩ đến điều lợi ích cho kẻ khác, sống phụng sự vì lợi ích chung. Vào Phật đạo là phải đi qua cửa Vô ngã, qua ít thì bớt khổ ít, qua nhiều thì bớt khổ nhiều, qua trọn vẹn thì dứt khổ, Niết-bàn an vui. Người tu mà ôm ấp bản ngã nặng, cố chấp không buông là trái với con đường mình đi, là quay lưng với ánh sáng giác ngộ.
Ngày 9/10/2019 (nhằm ngày 11/9 năm Kỷ Hợi), tại Tịnh xá Ngọc Thạnh (xã Tân Hòa, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), chư Tôn đức Giáo phẩm Hệ phái và hơn 150 hành giả đã tham dự lễ Bế mạc kết thúc Khóa tu Truyền thống lần thứ 29 sau 7 ngày tu học. Chứng minh và tham dự Lễ Bế mạc có: HT. Giác Tường, Thành viên Thường trực HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái Khất sĩ; HT. Giác Ngộ, Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái; HT. Giác Cầu - Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Giới, Phó Thư ký HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái; HT. Giác Hà - Thành viên HĐCM GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.Hồ Chí Minh, Phó Trưởng ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ; HT. Giác Hùng, Giáo phẩm Hệ phái, Chứng minh Giáo đoàn III; HT. Giác Pháp, Ủy viên HĐTS, Phó Ban kiêm Chánh Thư ký Ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái, HT. Giác Phùng – Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự phó Thường trực GĐ. III cùng chư Tôn Giáo phẩm lãnh đạo các giáo đoàn, và chư vị hành giả của 6 Giáo đoàn.
Bài pháp này liên quan đến Bát chi Thánh đạo, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Để giảng giải và phân tích các vấn đề này, Hòa thượng đã vận dụng những ý pháp của đức Phật dạy trong bài kinh Đại Niệm Xứ – Kinh Trường Bộ (Mahàsatipatthana Sutta, Dìgha Nikàya, dn 22) kết hợp với Đại kinh Bốn Mươi – Kinh Trung Bộ (Mahācattārīsaka Sutta, Majjhima Nikàya, mn 117) do cố HT.Thích Minh Châu dịch, và Bộ Chơn lý Bát Chánh Đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang để giúp các hành giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa, cách hành trì và tầm quan trọng của tám con đường đi đến sự giác ngộ này. “Này các tỳ kheo! Thế nào là chánh tri kiến? Thế nào là chánh tư duy? Thế nào là chánh ngữ? Thế nào là chánh nghiệp?…”
Bài pháp này liên quan đến Bát chi Thánh đạo, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Để giảng giải và phân tích các vấn đề này, Hòa thượng đã vận dụng những ý pháp của đức Phật dạy trong bài kinh Đại Niệm Xứ – Kinh Trường Bộ (Mahàsatipatthana Sutta, Dìgha Nikàya, dn 22) kết hợp với Đại kinh Bốn Mươi – Kinh Trung Bộ (Mahācattārīsaka Sutta, Majjhima Nikàya, mn 117) do cố HT.Thích Minh Châu dịch, và Bộ Chơn lý Bát Chánh Đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang để giúp các hành giả hiểu rõ hơn về ý nghĩa, cách hành trì và tầm quan trọng của tám con đường đi đến sự giác ngộ này. “Này các tỳ kheo! Thế nào là chánh tri kiến? Thế nào là chánh tư duy? Thế nào là chánh ngữ? Thế nào là chánh nghiệp?…”
Đức Phật hiện thân trên cuộc đời thuyết giảng tám muôn bốn ngàn pháp môn tu khác nhau, để chữa trị tám muôn bốn ngàn phiền não trần lao cho chúng sinh. Tùy người, tùy chỗ, tùy thời, Ngài nói pháp không đồng; nhưng chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là giúp chúng ta được cứu cánh giải thoát. Pháp môn kinh hành niệm Phật cũng không ngoài mục tiêu này
Đạo Phật là đạo từ bi vì thế là người con Phật, chúng ta phải tu tâm từ bi, trưởng dưỡng tâm từ bi trong cuộc sống mỗi ngày vì tâm từ là cội nguồn của mọi thiện nghiệp, là Phật tánh của chúng sanh. Điều này được Đức Phật thuyết trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai
Cái thấy của bậc vào dòng là thấy rõ Bốn sự thật đủ làm rơi rụng 88 kiến hoặc khiến chúng sinh không thấy được chân lý mà từ đó trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Kiến hoặc (darsana-mārga-prahātavyānuśaya) là những nhận thức, những hiểu biết sai lầm về chân lý. Các phiền não này sinh khởi ở nơi tâm do sự dẫn dắt của tà sư, tà giáo, gọi là phân biệt khởi; hoặc thuộc về mê lý, chấp lý Tứ đế, không chịu nhận chân sự thật… Khác với Tu hoặc, là những phiền não tiềm phục trong tâm chúng sinh, theo chúng sinh từ đời này qua đời khác, gọi là câu sinh khởi. Tu hoặc chỉ được đoạn trừ khi hành giả vào địa vị Tu đạo. 
Cái thấy của bậc vào dòng là thấy rõ Bốn sự thật đủ làm rơi rụng 88 kiến hoặc khiến chúng sinh không thấy được chân lý mà từ đó trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Kiến hoặc (darsana-mārga-prahātavyānuśaya) là những nhận thức, những hiểu biết sai lầm về chân lý. Các phiền não này sinh khởi ở nơi tâm do sự dẫn dắt của tà sư, tà giáo, gọi là phân biệt khởi; hoặc thuộc về mê lý, chấp lý Tứ đế, không chịu nhận chân sự thật… Khác với Tu hoặc, là những phiền não tiềm phục trong tâm chúng sinh, theo chúng sinh từ đời này qua đời khác, gọi là câu sinh khởi. Tu hoặc chỉ được đoạn trừ khi hành giả vào địa vị Tu đạo. 
Mở đầu Hòa thượng khái quát lại nội dung chủ đề và nói sơ vấn đề: “Thế nào là Khổ thánh đế?” đã được trình bày trong ngày thứ nhất của Khóa tu để các hành giả dễ theo dõi. Sau đó Hòa thượng trưởng ban phân tích tiếp vấn đề Khổ tập thánh đế: “Này các tỳ kheo thế nào là Khổ tập thánh đế?” Để làm rõ điều này Hòa thượng trình bày phân tích cặn kẻ thông qua 6 căn, 6 trần, 6 thức, 6 xúc, 6 thọ, 6 tưởng, 6 tư, 6 ái, 6 tầm, 6 tứ, với những ví dụ minh hoa thực tế, Hòa thượng giúp các hành giả nắm rõ về vấn đề này. Sau đó, Hòa thượng tiếp tục phân tích: “Thế nào là Khổ diệt thánh đế?” Cũng với cách phân tích đơn giản, những vị dụ khái quát, thực tế mà các hành giả của Khóa tu có thể nắm những vấn đề mà Hòa thượng muốn chuyển tải. Từ đó giúp cho các hành giả hiểu rõ mà áp dụng tu tập. Theo hòa thượng để đoạn trừ tham ái, phiền não và biết cách tu tập. Thì chỉ có một cách, đó chính là thông qua Giới, Định Huệ. Đây chính là giáo lý căn bản mà Tổ sư Minh Đăng Quang đã chỉ dạy, nay chư hành giả đang được chư Tôn đức hướng dẫn thông qua các Khóa tu truyền thống như thế này.
Mở đầu Hòa thượng khái quát lại nội dung chủ đề và nói sơ vấn đề: “Thế nào là Khổ thánh đế?” đã được trình bày trong ngày thứ nhất của Khóa tu để các hành giả dễ theo dõi. Sau đó Hòa thượng trưởng ban phân tích tiếp vấn đề Khổ tập thánh đế: “Này các tỳ kheo thế nào là Khổ tập thánh đế?” Để làm rõ điều này Hòa thượng trình bày phân tích cặn kẻ thông qua 6 căn, 6 trần, 6 thức, 6 xúc, 6 thọ, 6 tưởng, 6 tư, 6 ái, 6 tầm, 6 tứ, với những ví dụ minh hoa thực tế, Hòa thượng giúp các hành giả nắm rõ về vấn đề này. Sau đó, Hòa thượng tiếp tục phân tích: “Thế nào là Khổ diệt thánh đế?” Cũng với cách phân tích đơn giản, những vị dụ khái quát, thực tế mà các hành giả của Khóa tu có thể nắm những vấn đề mà Hòa thượng muốn chuyển tải. Từ đó giúp cho các hành giả hiểu rõ mà áp dụng tu tập. Theo hòa thượng để đoạn trừ tham ái, phiền não và biết cách tu tập. Thì chỉ có một cách, đó chính là thông qua Giới, Định Huệ. Đây chính là giáo lý căn bản mà Tổ sư Minh Đăng Quang đã chỉ dạy, nay chư hành giả đang được chư Tôn đức hướng dẫn thông qua các Khóa tu truyền thống như thế này.
Nếu trên đời này mọi người đều có Tâm lành, Tâm thiện, Tâm Bồ Tát và ai ai cũng có ý thức nói điều hay, làm việc tốt và luôn tâm niệm là hôm nay mình phải làm được điều gì đó tốt đẹp cho gia đình và cộng đồng thì xã hội sẽ bớt đi hoặc không còn những hành vi phạm pháp, bạo lực, bất nhân nữa!
Hòa thượng cho thấy quan điểm tiến hóa của Tổ sư Minh Đăng Quang được chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ tứ đại (đất, nước, gió, lửa), rồi lên cỏ cây, thú, người. Qua giai đoan 2 từ người mà tiến lên trời, Phật. Ở giai đoạn 2 này theo Hòa thượng Giác Pháp, ở đây Tổ sư cho rằng giai đoạn này do con người quyết định. Muốn thoát khỏi khổ đau thì phải tu học tiến lên, còn không cứ mãi loanh quanh trong lục đạo khổ đau hoài. Vì thế từ con người, phải tu lên thành trời, rồi thành Phật. Muốn làm Phật thì phải chuyển từ phàm phu thành Phật, những phiền não phải chuyển hết, phải thấy con người này không thật, thấy 5 uẩn bên trong và 5 uẩn bên ngoài không thật. Từ đó phá được tam giới ra khỏi 3 cõi. Con đường này đức Phật đã đi, Tổ sư đã đi và chúng ta đang đi. Đặc biệt, Hòa thượng nhấn mạnh không làm tăng thì không thể thành Phật.
Hòa thượng cho thấy quan điểm tiến hóa của Tổ sư Minh Đăng Quang được chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ tứ đại (đất, nước, gió, lửa), rồi lên cỏ cây, thú, người. Qua giai đoan 2 từ người mà tiến lên trời, Phật. Ở giai đoạn 2 này theo Hòa thượng Giác Pháp, ở đây Tổ sư cho rằng giai đoạn này do con người quyết định. Muốn thoát khỏi khổ đau thì phải tu học tiến lên, còn không cứ mãi loanh quanh trong lục đạo khổ đau hoài. Vì thế từ con người, phải tu lên thành trời, rồi thành Phật. Muốn làm Phật thì phải chuyển từ phàm phu thành Phật, những phiền não phải chuyển hết, phải thấy con người này không thật, thấy 5 uẩn bên trong và 5 uẩn bên ngoài không thật. Từ đó phá được tam giới ra khỏi 3 cõi. Con đường này đức Phật đã đi, Tổ sư đã đi và chúng ta đang đi. Đặc biệt, Hòa thượng nhấn mạnh không làm tăng thì không thể thành Phật.
Quê hương bình yên, êm ấm ấy vốn đã có sẵn trong tâm ta. Mỗi khi muốn trở về, ta không cần tốn tiền và mất thời gian đi máy bay hay tàu hỏa mà chỉ cần nương vào hơi thở có ý thức là chúng ta lập tức chạm chân tới miền đất an lành đó. Và quê hương ấy, căn nhà an toàn ấy đi đâu ta cũng mang theo. Tại vì cái hải đảo đó không nằm ở không gian hay ở thời gian ngoài kia mà nó nằm ở trong tâm ta. Đức Thế Tôn dạy chúng ta phải thường xuyên trở về với hải đảo tự thân của mình. Khi mở những cánh cửa giác quan thì chúng ta tiếp xúc với những cái thấy, cái nghe, cái xúc chạm từ bên ngoài. Những pháp trần này như những luồng gió thổi vào căn nhà của ta. Nó làm xáo trộn tâm ta. Cho nên khi trở về, chúng ta phải đóng bớt những cánh cửa giác quan lại.
SÁU PHÉP QUYẾN LUYẾN CỦA THIỆN TRÍ THỨC 1.Quyến luyến trong việc xuất gia. 2.Quyến luyến trong sự dứt bỏ nơi hội họïp, để đi ở nơi vắng. 3.Quyến luyến trong việc bố thí. 4.Quyến luyến trong phép từ bi đối với chúng sanh. 5.Quyến luyến trong việc làm lành và không dễ duôi. 6.Quyến luyến trong sự giải thoát, không lòng ưa thích sự luân hồi.
Sáng ngày 2/10/2019 (nhằm ngày 4/9 năm Kỷ Hợi), chư Tôn đức giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ đã tổ chức khai mạc khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 29 và hướng dẫn tu học ngày đầu tiên tại đạo tràng Tịnh xá Ngọc Thạnh (xã Tân Hòa, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) cho hơn 150 vị hành giả về tham dự. Chứng minh và tham dự Lễ Khai mạc có: HT. Giác Ngộ, Thành viên Hội đồng Chứng minh TW GHPGVN, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Cầu - Thành viên Hội đồng Chứng minh TW GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Giới - Phó Thư ký HĐCM GHPGVN, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Vĩnh Long, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Hà - Thành viên HĐCM GHPGVN, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.Hồ Chí Minh, Phó Trưởng ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái; HT. Giác Hùng – Giáo phẩm Hệ phái, Đệ nhất chứng minh Giáo đoàn III; HT. Giác Pháp - Ủy viên HĐTS, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương GHPGVN, Chánh Thư ký Hệ phái; HT. Giác Phùng – Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự phó Thường trực GĐ. III; HT. Giác Sơn - Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận, Giáo phẩm Hệ phái, Giáo phẩm Giáo đoàn II; cùng chư Tôn Giáo phẩm lãnh đạo các giáo đoàn, và chư vị hành giả của 6 Giáo đoàn.
Hòa thượng cho thấy quan điểm tiến hóa của Tổ sư Minh Đăng Quang được chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ tứ đại (đất, nước, gió, lửa), rồi lên cỏ cây, thú, người. Qua giai đoan 2 từ người mà tiến lên trời, Phật. Ở giai đoạn 2 này theo Hòa thượng Giác Pháp, ở đây Tổ sư cho rằng giai đoạn này do con người quyết định. Muốn thoát khỏi khổ đau thì phải tu học tiến lên, còn không cứ mãi loanh quanh trong lục đạo khổ đau hoài. Vì thế từ con người, phải tu lên thành trời, rồi thành Phật. Muốn làm Phật thì phải chuyển từ phàm phu thành Phật, những phiền não phải chuyển hết, phải thấy con người này không thật, thấy 5 uẩn bên trong và 5 uẩn bên ngoài không thật. Từ đó phá được tam giới ra khỏi 3 cõi. Con đường này đức Phật đã đi, Tổ sư đã đi và chúng ta đang đi. Đặc biệt, Hòa thượng nhấn mạnh không làm tăng thì không thể thành Phật.
Hòa thượng cho thấy quan điểm tiến hóa của Tổ sư Minh Đăng Quang được chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn đầu từ tứ đại (đất, nước, gió, lửa), rồi lên cỏ cây, thú, người. Qua giai đoan 2 từ người mà tiến lên trời, Phật. Ở giai đoạn 2 này theo Hòa thượng Giác Pháp, ở đây Tổ sư cho rằng giai đoạn này do con người quyết định. Muốn thoát khỏi khổ đau thì phải tu học tiến lên, còn không cứ mãi loanh quanh trong lục đạo khổ đau hoài. Vì thế từ con người, phải tu lên thành trời, rồi thành Phật. Muốn làm Phật thì phải chuyển từ phàm phu thành Phật, những phiền não phải chuyển hết, phải thấy con người này không thật, thấy 5 uẩn bên trong và 5 uẩn bên ngoài không thật. Từ đó phá được tam giới ra khỏi 3 cõi. Con đường này đức Phật đã đi, Tổ sư đã đi và chúng ta đang đi. Đặc biệt, Hòa thượng nhấn mạnh không làm tăng thì không thể thành Phật.
Nguồn gốc ấy của khổ đau chính là nghiệp (karma) và các yếu tố bấn loạn bên trong tâm thức mình. Nghiệp mà chúng ta tự tạo ra cho mình và các yếu tố bấn loạn bên trong tâm thức mình chính là nguyên nhân mang lại khổ đau cho chính mình. Nguồn gốc của khổ đau do đó gồm có hai thể dạng: nghiệp (karma) và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức. Các yếu tố bấn loạn này có thể là các cảm tính tham lam, bám víu, hận thù, ghét bỏ, vô minh, sai lầm, kiêu ngạo, ganh tị, v.v. Xung năng của các yếu tố bấn loạn đó sẽ chuyển thành hành động và từ các hành động mà nghiệp sẽ phát sinh. Dưới sự chi phối của vô minh chúng ta xem cái tôi của mình hàm chứa một sự hiện hữu đích thật, độc lập. Từ sự lầm lẫn đó các yếu tố bấn loạn sẽ hiện lên trong tâm thức mình - chẳng hạn như các sự giận dữ, ghét bỏ, kiêu ngạo, ganh ghét, v.v. là những thứ tạo ra  tình trạng vô minh khiến mình nắm bắt cái tôi để mà tạo ra đủ mọi thứ nghiệp cho mình. Chỉ khi nào thực hiện được vô ngã, tức sự trống không của cá thể con người, thì khi đó người ta mới có thể khiến cho quá trình tạo nghiệp gây ra bởi các yếu tố bấn loạn trong tâm thức phát sinh từ tình trạng vô minh phải dừng lại
Nguồn gốc ấy của khổ đau chính là nghiệp (karma) và các yếu tố bấn loạn bên trong tâm thức mình. Nghiệp mà chúng ta tự tạo ra cho mình và các yếu tố bấn loạn bên trong tâm thức mình chính là nguyên nhân mang lại khổ đau cho chính mình. Nguồn gốc của khổ đau do đó gồm có hai thể dạng: nghiệp (karma) và các yếu tố bấn loạn trong tâm thức. Các yếu tố bấn loạn này có thể là các cảm tính tham lam, bám víu, hận thù, ghét bỏ, vô minh, sai lầm, kiêu ngạo, ganh tị, v.v. Xung năng của các yếu tố bấn loạn đó sẽ chuyển thành hành động và từ các hành động mà nghiệp sẽ phát sinh. Dưới sự chi phối của vô minh chúng ta xem cái tôi của mình hàm chứa một sự hiện hữu đích thật, độc lập. Từ sự lầm lẫn đó các yếu tố bấn loạn sẽ hiện lên trong tâm thức mình - chẳng hạn như các sự giận dữ, ghét bỏ, kiêu ngạo, ganh ghét, v.v. là những thứ tạo ra  tình trạng vô minh khiến mình nắm bắt cái tôi để mà tạo ra đủ mọi thứ nghiệp cho mình. Chỉ khi nào thực hiện được vô ngã, tức sự trống không của cá thể con người, thì khi đó người ta mới có thể khiến cho quá trình tạo nghiệp gây ra bởi các yếu tố bấn loạn trong tâm thức phát sinh từ tình trạng vô minh phải dừng lại
Thông qua bộ Chơn Lý Nhập Định, Hòa thượng giúp đại chúng hiểu: ai nắm rõ yếu tố Định thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, an vui, không buồn khổ, còn ngược lại sẽ luôn cảm thấy bất ổn, khó khăn và gặp nhiều chướng ngại. Nắm vững được điều này, Hòa thượng trưởng ban cho rằng khi chúng ta hướng dẫn Phật tử sẽ đi đúng con đường chơn chánh và Tổ sư Minh Đăng Quang cũng như các đức Thầy đã hành và tu tập như thế. Từ đó, các Phật tử sẽ cảm thấy thích tu, ham tu và không lo lắng hay sợ cái chết. Muốn được vậy, Hòa thượng cho rằng: “Muốn Định thì phải ngăn ngừa cái ác: thân ác, khẩu ác, ý ác; giữ giới luật… để bảo tồn cái Định trong mỗi bản thân của người tu tập. Thế nên mỗi hành giả cần phải có kỷ luật. Như vậy người tu tập mới không rơi vào cõi u mê, tối tăm, từ đó có định mà phát sanh trí huệ, con người mới hưu trí chơn như. Mỗi hành giả tu tập có định tức là tin chắc ta trọn lành. Ngoài việc phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của Định theo Tổ sư Minh Đăng Quang vào buổi sáng. Vào giờ giảng pháp buổi chiều, Hòa thượng Trưởng ban Tổ chức đã phân tích sâu hơn về các pháp để đạt được Định mà Tổ sư đã chỉ dạy thông qua Bộ Chơn Lý Nhập Định số 14. Vì thời gian không có nhiều, nên Hòa thượng mong rằng các hành giả trong khóa tu, sau khi nghe giảng, cần nỗ lực suy ngẫm trong các giờ hành thiền, tu tập trong những thời gian rãnh. Chắc chắn những vị nào có sự kiên trì tu tập, chịu khó hành thiền, suy ngẫm… quả vị sơ quả dự lưu sẽ không khó mà có được.
Thông qua bộ Chơn Lý Nhập Định, Hòa thượng giúp đại chúng hiểu: ai nắm rõ yếu tố Định thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, an vui, không buồn khổ, còn ngược lại sẽ luôn cảm thấy bất ổn, khó khăn và gặp nhiều chướng ngại. Nắm vững được điều này, Hòa thượng trưởng ban cho rằng khi chúng ta hướng dẫn Phật tử sẽ đi đúng con đường chơn chánh và Tổ sư Minh Đăng Quang cũng như các đức Thầy đã hành và tu tập như thế. Từ đó, các Phật tử sẽ cảm thấy thích tu, ham tu và không lo lắng hay sợ cái chết. Muốn được vậy, Hòa thượng cho rằng: “Muốn Định thì phải ngăn ngừa cái ác: thân ác, khẩu ác, ý ác; giữ giới luật… để bảo tồn cái Định trong mỗi bản thân của người tu tập. Thế nên mỗi hành giả cần phải có kỷ luật. Như vậy người tu tập mới không rơi vào cõi u mê, tối tăm, từ đó có định mà phát sanh trí huệ, con người mới hưu trí chơn như. Mỗi hành giả tu tập có định tức là tin chắc ta trọn lành. Ngoài việc phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của Định theo Tổ sư Minh Đăng Quang vào buổi sáng. Vào giờ giảng pháp buổi chiều, Hòa thượng Trưởng ban Tổ chức đã phân tích sâu hơn về các pháp để đạt được Định mà Tổ sư đã chỉ dạy thông qua Bộ Chơn Lý Nhập Định số 14. Vì thời gian không có nhiều, nên Hòa thượng mong rằng các hành giả trong khóa tu, sau khi nghe giảng, cần nỗ lực suy ngẫm trong các giờ hành thiền, tu tập trong những thời gian rãnh. Chắc chắn những vị nào có sự kiên trì tu tập, chịu khó hành thiền, suy ngẫm… quả vị sơ quả dự lưu sẽ không khó mà có được.
Theo Thượng tọa, Phúc lành tối thượng là cao nhất, hơn những cái phúc lành như: phúc lành tiền bạc, xe cộ, thân quyến, bạn bè, được mọi người tôn trọng… Phúc lành đó giúp cho mọi người vượt qua các phiền não trong cuộc đời. Phúc lành mà người tu sĩ đúng nghĩa phải hướng tới. Thượng tọa cũng cho biết sáng nay có nghe được những câu nói nghe rất là xấu, nặng nề, nhưng đó là những câu quan tâm, đùm bọc, chân tình. Tuy những chữ đó nghe thì xấu, không tốt… nhưng thật sự rất là tốt. Còn hơn là những câu khen, tâng bốc… nhưng chỉ mang tính chất xả giao. Những chữ tốt đó thì lại không chắc lắm, hạn chế. Vì thế có thể thấy, có những câu nghe xấu, không hay nhưng nếu trong bàn tay yêu thương chân tình thì đó là những chữ rất là tốt. Theo Thượng tọa chúng ta có 2 cái tai, Tai bên trái để nghe những lời đầy tai ương, đầy phiền não… nhưng nghe xong thì nên để đó và buông bỏ. Còn tai bên phải nghe những lời chân tình, chơn chất, đúng đạo lý, có chất liệu từ bi hỷ xã yêu thương… để làm dưỡng chất, xây dựng cái nguồn nuôi dưỡng tâm hồn của mình. Đó chính là vấn đề xúc chạm chuyện đời.
Theo Thượng tọa, Phúc lành tối thượng là cao nhất, hơn những cái phúc lành như: phúc lành tiền bạc, xe cộ, thân quyến, bạn bè, được mọi người tôn trọng… Phúc lành đó giúp cho mọi người vượt qua các phiền não trong cuộc đời. Phúc lành mà người tu sĩ đúng nghĩa phải hướng tới. Thượng tọa cũng cho biết sáng nay có nghe được những câu nói nghe rất là xấu, nặng nề, nhưng đó là những câu quan tâm, đùm bọc, chân tình. Tuy những chữ đó nghe thì xấu, không tốt… nhưng thật sự rất là tốt. Còn hơn là những câu khen, tâng bốc… nhưng chỉ mang tính chất xả giao. Những chữ tốt đó thì lại không chắc lắm, hạn chế. Vì thế có thể thấy, có những câu nghe xấu, không hay nhưng nếu trong bàn tay yêu thương chân tình thì đó là những chữ rất là tốt. Theo Thượng tọa chúng ta có 2 cái tai, Tai bên trái để nghe những lời đầy tai ương, đầy phiền não… nhưng nghe xong thì nên để đó và buông bỏ. Còn tai bên phải nghe những lời chân tình, chơn chất, đúng đạo lý, có chất liệu từ bi hỷ xã yêu thương… để làm dưỡng chất, xây dựng cái nguồn nuôi dưỡng tâm hồn của mình. Đó chính là vấn đề xúc chạm chuyện đời.
Con đường tu tập tâm là áp dụng những phương pháp để loại bỏ ra khỏi tâm những phẩm chất xấu, chiếu ánh sáng vào phần ‘tối’ của tâm thức. Khi có niềm tin chân chánh, tâm sẽ không bị lôi kéo vào những niềm tin mù quáng thiếu cơ sở mang tính mê tín dị đoan. Khi đã có chánh tín nhờ học hỏi và duyên lành, con người sẽ có động lực sống tốt, sống có ý nghĩa, và làm hiển lộ phần sáng của tâm thức mà bản chất vốn là chiếu sáng và thanh tịnh không uế nhiễm. Thiền định (samādhi) từng bước một giải phóng tâm ra khỏi các loại phiền não nghiệp chướng, và trả tâm về trạng thái trong sáng chiếu diệu (pabhassa cittam) như nó vốn có. Một cái tâm đã rũ sạch các phiền não cấu uế thì được gọi là tâm giải thoát (citta vimutti). Đây cũng là trạng thái thiền định, khi tâm thức đã lắng dịu, khi các nhiệt động do tham, sân, si, hoài nghi, trạo hối, lo lắng bất an và các trạng thái bất thiện khác đã tạm thời được dập tắt.
Trí tuệ con người làm nên tất cả. Là đệ tử Phật, người tu phải phát huy trí tuệ và thâm nhập pháp, chuyển các pháp trở thành Phật pháp. Chính vì vậy, trong xã hội ngày nay, nếu có nhiều nhà sư có trí tuệ sẽ ảnh hưởng tốt cho nhiều người, giúp đất nước phát triển là xây dựng con đường Phật giáo hưng thạnh. Nếu không giúp ích được cho xã hội, người nghĩ việc này, ta làm việc khác, họ sẽ bỏ rơi Phật giáo, Phật giáo sẽ chìm vào lãng quên, nghĩa là Phật Niết-bàn.
- Bỏ dữ làm lành, tu tập đúng như pháp, đem lời trung chánh nghĩa hiệp có đạo. - Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn, có đánh nhau mới biết kẻ yếu, người mạnh, có nghị luận mới biết được người trí, lúc cơm thua gạo kém mới biết được người có lòng nhân. - Sinh ra sẳn có của cha mẹ để lại, và gặp được bạn hiền rất thiết, các việc ác không phạm đến, và có phước thừa là rất thích. - Có Phật ra đời rất thích, diễn giảng đạo pháp rất thích, chúng Tăng nhóm họp về hòa thuận rất thích, hòa thuận thì thường yên vui. - Nếu biết thương lấy mình, thì phải dè dặt giữ mình, các bậc hiền sĩ có chí hướng cao thượng, sâu xa, học hiểu chính đáng, thì không bao giờ lầm lạc. - Chuyên tu cội đức, nghĩ trước rồi làm sau, cứu giúp người trong cơn nguy cấp và bần khổ thì trọn đời được an vui.
Mở đầu bài giảng Thượng tọa xin phép chư Tôn đức giáo phẩm Hệ phái, chư Tôn đức trong Ban Tổ chức, Ban chức sự, quý hành giả của Khóa tu, cho phép chia sẻ nội dung 1 đoạn trong Kinh Điềm Lành và đoạn thứ 3 trong Chơn lý Nhập định số 14 của Tổ sư Minh Đăng Quang. Bài giảng được Thượng tọa lồng ghép qua diễn tiến xúc chạm của bản thân đối với cuộc đời, từ đó Ngài đã làm sáng tỏ để cho đại chúng được hiểu. Khi xúc chạm việc đời Tâm không động không sầu Không uế nhiễm an ổn Là điềm lành tối thượng (Đoạn 11 của Kinh Điềm Lành) Theo Thượng tọa, chữ “Điềm lành tối thượng” có khi được dịch ra là: “Phúc lành tối thượng”. Không phải xuất phát từ cao siêu, chuyện thiền định, thiền quán… Không phải xuất phát từ cái vị trí cao của thang bậc của cuộc đời, thang bậc của xã hội. Không phải xuất phát từ việc do một nhân duyên nào đó mà được sanh vào cảnh giới yên vui nào đó. Hay mình được tiếp xúc các bậc thiên tử, bậc thậm thâm vi diệu… Hay là do mình đi cầu kiến ở những cái non cao núi thẳm và được bậc thượng nhân, vị cao sĩ, những vị đắc đạo… mà có được cái hạnh phúc tối thượng, có điềm lành tối thượng. Tất cả đều không phải. Mà ở đây Thượng tọa cho rằng: cái đối tượng để có được điềm lành tối thượng trong đoạn kinh trên, rất là đời thường đó là cái có được khi xúc chạm việc đời. Từ những xúc chạm đó trải qua 1 quá trình thì có được phúc lành tối thượng. Bên cạnh kinh Điềm Lành, Thượng tọa cũng cho rằng nội dung trong bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang có 1 cái nhìn rất là dung thông, không bắt phải làm cái này cái kia cho thật chính xác chỉ gợi lên phương hướng mà thôi. Mỗi một hành giả nhận thức cái cốt lõi của cái phương hướng mà Chơn lý gợi lên, làm theo. Chắc chắn sẽ được phúc lạc, đi tới cái điềm lành. Thông qua câu chuyện về việc đi đám tang của một chư Tôn đức là bạn đồng học hồi xưa ở Học viện Phật giáo Việt Nam TPHCM, Thượng tọa cho rằng việc gặp HT. Tâm Đức rất là khó do Ngài rất là bận. Thế nhưng khi nghe tin người bạn đồng học hồi trước mất thì Hòa thượng đã đi viếng liền. Qua đó, Thượng tọa cho các hành giả thấy những phiền toái của địa vị, của trật tự, của sơn môn pháp phái khác nhau, của công việc bận rộn… cũng sẽ bị xóa đi, khi có một điều gì đó xảy ra. Ở đây điều này có được là do sự viên tịch của một vị chư Tôn đức, nó cho chúng ta một cảm xúc rất là đặc biệt, chỉ khi đó mới có cảm xúc như vậy.  Điều này theo Thượng tọa diễn tiến tâm lý như vậy, trong Chơn lý đức Tổ sư đã nêu rất rõ. Kế sau đó, Thượng tọa với ví dụ về sự lạm dụng từ Phật sự khi được hỏi đến của các vị tu sĩ khi làm điều gì. Thượng tọa cho rằng, ai nói đi đâu, làm gì cũng đều đổ cho là đi làm Phật sự. Tuy nhiên, các vị ấy không hiểu nhiều khi bản thân mang một đống cái tâm sân, một mớ cái nổi niềm đem về chùa để mà gặm nhấm. Đó là những cái xúc chạm “Phật sự”, theo Thượng tọa: thật sự mà nói thì cũng nữa này, nữa kia. Phải nhìn thẳng vào sự thật, trong cái Phật sự đó nó chen vào cái gì?... Thành ra, việc đời ở đây nó bao hàm toàn bộ những diễn tiến trong cuộc đời này. Dù đó là Phật sự hay không phải Phật sự. Qua đó, Thượng tọa cho rằng, cái chất trong công việc, và cái chất đời trong công việc nó chông chênh, xâm thực.. với nhau. Với một con mắt của vị Thiền sư, mình nhìn được sự thật, đồng thời nhìn được cái nguyên nhân của sự thật đó. Nhìn được bằng con mắt tích cực, khai thác cái ưu việt của giáo lý, của lời dạy Tổ sư, trong kinh điển. Qua đó, Thượng tọa cho rằng, một trong những bài kinh để hóa giải điều nay chính là không tâm, không động, không sầu. Vì chỉ khi tâm không động giữa cái biến động của cuộc đời thì mới vượt qua mọi cái ưu phiền, khổ não. Đáng lẽ có cái khiến mình sầu, khổ ưu lắm… nhưng qua lời kinh, nghe lại lời pháp thì việc đó được hóa giải. Hóa giải qua việc tâm không động. Vì khi tâm không động thì diễn tiến sẽ không sầu. Đó là vì những điều đó như mộng, như huyễn, như ảnh, là sương, là sấm chớp… thì có gì mà phải buồn, phải sầu. Tâm đạt cảnh giới như vậy thì nói theo duy thức đại thừa đó là tâm thức bản lai thanh tịnh. Tại sao tâm thức của mình đáng ra là bản lai thanh tịnh thì lại lung tung đủ thứ, theo Thượng tọa đó là vì pháp trần thấm vào. VD: Khi đi làm Phật sự thì nghe cũng có những câu rất là hữu tình, rất là chí lý, rất là đạo nghĩa, rất là từ bi hỷ xã… nhưng mà bản thân đâu có loại trừ được những câu tiêu cực, những câu nói cạnh, nói khóe… Đó là những pháp trần đưa vào tâm thức của mình, nếu như tâm thức mình kết với mấy câu tham sân si đó thì có kết quả không như mong muốn, từ đó mà tâm uế nhiễm, bất an. Vì thế người có sự tu tập, theo Thượng tọa là người không thèm để ý tới những câu đưa tới tham sân si. Mà mỗi người nên để tâm vào những câu từ bi, câu trí tuệ, thương yêu, bao dung… mà kết thân, tương tác… với những câu như vậy… Chắc chắn sẽ được một trạng thái mà kinh Điềm Lành đã nhắc: “Không uế nhiễm an ổn”. Từ đó mới có kết quả là phúc lành tối thượng. Theo Thượng tọa, Phúc lành tối thượng là cao nhất, hơn những cái phúc lành như: phúc lành tiền bạc, xe cộ, thân quyến, bạn bè, được mọi người tôn trọng… Phúc lành đó giúp cho mọi người vượt qua các phiền não trong cuộc đời. Phúc lành mà người tu sĩ đúng nghĩa phải hướng tới. Thượng tọa cũng cho biết sáng nay có nghe được những câu nói nghe rất là xấu, nặng nề, nhưng đó là những câu quan tâm, đùm bọc, chân tình. Tuy những chữ đó nghe thì xấu, không tốt… nhưng thật sự rất là tốt. Còn hơn là những câu khen, tâng bốc… nhưng chỉ mang tính chất xả giao. Những chữ tốt đó thì lại không chắc lắm, hạn chế. Vì thế có thể thấy, có những câu nghe xấu, không hay nhưng nếu trong bàn tay yêu thương chân tình thì đó là những chữ rất là tốt. Theo Thượng tọa chúng ta có 2 cái tai, Tai bên trái để nghe những lời đầy tai ương, đầy phiền não… nhưng nghe xong thì nên để đó và buông bỏ. Còn tai bên phải nghe những lời chân tình, chơn chất, đúng đạo lý, có chất liệu từ bi hỷ xã yêu thương… để làm dưỡng chất, xây dựng cái nguồn nuôi dưỡng tâm hồn của mình. Đó chính là vấn đề xúc chạm chuyện đời.
Mở đầu bài giảng Thượng tọa xin phép chư Tôn đức giáo phẩm Hệ phái, chư Tôn đức trong Ban Tổ chức, Ban chức sự, quý hành giả của Khóa tu, cho phép chia sẻ nội dung 1 đoạn trong Kinh Điềm Lành và đoạn thứ 3 trong Chơn lý Nhập định số 14 của Tổ sư Minh Đăng Quang. Bài giảng được Thượng tọa lồng ghép qua diễn tiến xúc chạm của bản thân đối với cuộc đời, từ đó Ngài đã làm sáng tỏ để cho đại chúng được hiểu. Khi xúc chạm việc đời Tâm không động không sầu Không uế nhiễm an ổn Là điềm lành tối thượng (Đoạn 11 của Kinh Điềm Lành) Theo Thượng tọa, chữ “Điềm lành tối thượng” có khi được dịch ra là: “Phúc lành tối thượng”. Không phải xuất phát từ cao siêu, chuyện thiền định, thiền quán… Không phải xuất phát từ cái vị trí cao của thang bậc của cuộc đời, thang bậc của xã hội. Không phải xuất phát từ việc do một nhân duyên nào đó mà được sanh vào cảnh giới yên vui nào đó. Hay mình được tiếp xúc các bậc thiên tử, bậc thậm thâm vi diệu… Hay là do mình đi cầu kiến ở những cái non cao núi thẳm và được bậc thượng nhân, vị cao sĩ, những vị đắc đạo… mà có được cái hạnh phúc tối thượng, có điềm lành tối thượng. Tất cả đều không phải. Mà ở đây Thượng tọa cho rằng: cái đối tượng để có được điềm lành tối thượng trong đoạn kinh trên, rất là đời thường đó là cái có được khi xúc chạm việc đời. Từ những xúc chạm đó trải qua 1 quá trình thì có được phúc lành tối thượng. Bên cạnh kinh Điềm Lành, Thượng tọa cũng cho rằng nội dung trong bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang có 1 cái nhìn rất là dung thông, không bắt phải làm cái này cái kia cho thật chính xác chỉ gợi lên phương hướng mà thôi. Mỗi một hành giả nhận thức cái cốt lõi của cái phương hướng mà Chơn lý gợi lên, làm theo. Chắc chắn sẽ được phúc lạc, đi tới cái điềm lành. Thông qua câu chuyện về việc đi đám tang của một chư Tôn đức là bạn đồng học hồi xưa ở Học viện Phật giáo Việt Nam TPHCM, Thượng tọa cho rằng việc gặp HT. Tâm Đức rất là khó do Ngài rất là bận. Thế nhưng khi nghe tin người bạn đồng học hồi trước mất thì Hòa thượng đã đi viếng liền. Qua đó, Thượng tọa cho các hành giả thấy những phiền toái của địa vị, của trật tự, của sơn môn pháp phái khác nhau, của công việc bận rộn… cũng sẽ bị xóa đi, khi có một điều gì đó xảy ra. Ở đây điều này có được là do sự viên tịch của một vị chư Tôn đức, nó cho chúng ta một cảm xúc rất là đặc biệt, chỉ khi đó mới có cảm xúc như vậy.  Điều này theo Thượng tọa diễn tiến tâm lý như vậy, trong Chơn lý đức Tổ sư đã nêu rất rõ. Kế sau đó, Thượng tọa với ví dụ về sự lạm dụng từ Phật sự khi được hỏi đến của các vị tu sĩ khi làm điều gì. Thượng tọa cho rằng, ai nói đi đâu, làm gì cũng đều đổ cho là đi làm Phật sự. Tuy nhiên, các vị ấy không hiểu nhiều khi bản thân mang một đống cái tâm sân, một mớ cái nổi niềm đem về chùa để mà gặm nhấm. Đó là những cái xúc chạm “Phật sự”, theo Thượng tọa: thật sự mà nói thì cũng nữa này, nữa kia. Phải nhìn thẳng vào sự thật, trong cái Phật sự đó nó chen vào cái gì?... Thành ra, việc đời ở đây nó bao hàm toàn bộ những diễn tiến trong cuộc đời này. Dù đó là Phật sự hay không phải Phật sự. Qua đó, Thượng tọa cho rằng, cái chất trong công việc, và cái chất đời trong công việc nó chông chênh, xâm thực.. với nhau. Với một con mắt của vị Thiền sư, mình nhìn được sự thật, đồng thời nhìn được cái nguyên nhân của sự thật đó. Nhìn được bằng con mắt tích cực, khai thác cái ưu việt của giáo lý, của lời dạy Tổ sư, trong kinh điển. Qua đó, Thượng tọa cho rằng, một trong những bài kinh để hóa giải điều nay chính là không tâm, không động, không sầu. Vì chỉ khi tâm không động giữa cái biến động của cuộc đời thì mới vượt qua mọi cái ưu phiền, khổ não. Đáng lẽ có cái khiến mình sầu, khổ ưu lắm… nhưng qua lời kinh, nghe lại lời pháp thì việc đó được hóa giải. Hóa giải qua việc tâm không động. Vì khi tâm không động thì diễn tiến sẽ không sầu. Đó là vì những điều đó như mộng, như huyễn, như ảnh, là sương, là sấm chớp… thì có gì mà phải buồn, phải sầu. Tâm đạt cảnh giới như vậy thì nói theo duy thức đại thừa đó là tâm thức bản lai thanh tịnh. Tại sao tâm thức của mình đáng ra là bản lai thanh tịnh thì lại lung tung đủ thứ, theo Thượng tọa đó là vì pháp trần thấm vào. VD: Khi đi làm Phật sự thì nghe cũng có những câu rất là hữu tình, rất là chí lý, rất là đạo nghĩa, rất là từ bi hỷ xã… nhưng mà bản thân đâu có loại trừ được những câu tiêu cực, những câu nói cạnh, nói khóe… Đó là những pháp trần đưa vào tâm thức của mình, nếu như tâm thức mình kết với mấy câu tham sân si đó thì có kết quả không như mong muốn, từ đó mà tâm uế nhiễm, bất an. Vì thế người có sự tu tập, theo Thượng tọa là người không thèm để ý tới những câu đưa tới tham sân si. Mà mỗi người nên để tâm vào những câu từ bi, câu trí tuệ, thương yêu, bao dung… mà kết thân, tương tác… với những câu như vậy… Chắc chắn sẽ được một trạng thái mà kinh Điềm Lành đã nhắc: “Không uế nhiễm an ổn”. Từ đó mới có kết quả là phúc lành tối thượng. Theo Thượng tọa, Phúc lành tối thượng là cao nhất, hơn những cái phúc lành như: phúc lành tiền bạc, xe cộ, thân quyến, bạn bè, được mọi người tôn trọng… Phúc lành đó giúp cho mọi người vượt qua các phiền não trong cuộc đời. Phúc lành mà người tu sĩ đúng nghĩa phải hướng tới. Thượng tọa cũng cho biết sáng nay có nghe được những câu nói nghe rất là xấu, nặng nề, nhưng đó là những câu quan tâm, đùm bọc, chân tình. Tuy những chữ đó nghe thì xấu, không tốt… nhưng thật sự rất là tốt. Còn hơn là những câu khen, tâng bốc… nhưng chỉ mang tính chất xả giao. Những chữ tốt đó thì lại không chắc lắm, hạn chế. Vì thế có thể thấy, có những câu nghe xấu, không hay nhưng nếu trong bàn tay yêu thương chân tình thì đó là những chữ rất là tốt. Theo Thượng tọa chúng ta có 2 cái tai, Tai bên trái để nghe những lời đầy tai ương, đầy phiền não… nhưng nghe xong thì nên để đó và buông bỏ. Còn tai bên phải nghe những lời chân tình, chơn chất, đúng đạo lý, có chất liệu từ bi hỷ xã yêu thương… để làm dưỡng chất, xây dựng cái nguồn nuôi dưỡng tâm hồn của mình. Đó chính là vấn đề xúc chạm chuyện đời.
Bốn sự thật của bậc Thánh: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với bốn sự thật. Này các Tỳ-kheo, ở đây Tỳ-kheo như thật tuệ tri: “Đây là khồ”, như thật tuệ tri: “Đây là khổ tập”, như thật tuệ tri: “Đây là khổ diệt”, như thật tuệ tri: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt”.
Bốn sự thật của bậc Thánh: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là Tỳ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với bốn sự thật. Này các Tỳ-kheo, ở đây Tỳ-kheo như thật tuệ tri: “Đây là khồ”, như thật tuệ tri: “Đây là khổ tập”, như thật tuệ tri: “Đây là khổ diệt”, như thật tuệ tri: “Đây là con đường đưa đến khổ diệt”.
Qua buổi giảng, Hòa thượng Trưởng ban đã nhắc lại hoàn cảnh cũng như nhân duyên trước đây mình đã xuất gia, cũng như động lực để phát triển trong đạo. Bên cạnh đó, Hòa thượng cũng cho rằng: Hiện nay chư Tôn đức học rất nhiều, nhưng rất ít để ý đến Chơn Lý của Tổ sư, đó là một sự thiếu sót. Chúng ta cần phải hiểu, Chơn Lý là những giáo lý do Tổ sư cô đọng lại của Kinh Luật Luận. Vậy mà nhiều chư Tăng Ni giáo lý kinh điển học rất nhiều, nhưng giáo lý của nhà mình thì lại không nắm vững. Để giúp cho chư Tôn đức hành giả cùng nắm rõ hơn về giáo lý Tổ sư để lại, Hòa thượng chọn đề tài về Nhập định được Tổ sư viết trong cuốn sô 14 của bộ Chơn Lý. Hòa thượng cho rằng, mỗi vị Khất sĩ cần nắm rõ cái gốc gác, tư tưởng truyền thống của Tổ để lại. Qua đó, Hòa thượng trưởng ban mong muốn tha thiết, mỗi huynh đệ ở mỗi khóa tu ráng tìm về cội nguồn của Tổ thầy mình. Làm sao mỗi vị Khất sĩ cần nắm vững tư tưởng của Tổ Thầy, để sau này có sự kế thừa khi chư Tôn đức trưởng lão lớn tuổi thì có các hàng kế tục theo đúng với con đường Tổ sư đã chỉ dạy. Thông qua bộ Chơn Lý: Nhập Định, HT. Giác Toàn với lời giảng mộc mạc, đơn giản và những ví dụ thực tiễn đã giúp cho các hành giả hiểu rõ hơn về cách thức Định theo tư tưởng của Tổ sư Minh Đăng Quang Hòa thượng nhắc nhở các hành giả nên xem lại, mình đi tu theo Tổ sư đã gắn với các ý pháp của Tổ hay không? Đã thật sự buông bỏ tất cả hay chữa? Có đi theo con đường mà Tổ Thầy đã vạch ra hay không? Hay là thân thì ở trong đạo nhưng tâm thì lại ở bên ngoài. Từ đó Hòa thượng cho rằng, mỗi vị hành giả cần phải nắm rõ chánh định, tức là tâm tánh phải y nhất. Đi tu thì phải nhớ mình đã tu rồi, mà đã tu rồi thì phải quyết chí mà tu tập. Chứ đừng có như một người khi vào bếp nhưng không chịu làm gì hết, nhưng đến trưa thì lại muốn có phần ăn như mọi người. Như vậy thì không thể chấp nhận được. Đó chính là tuy đã đi tu nhưng tánh tướng của nhà Phật thì vẫn chưa có hay là chưa chịu hành theo.
Qua buổi giảng, Hòa thượng Trưởng ban đã nhắc lại hoàn cảnh cũng như nhân duyên trước đây mình đã xuất gia, cũng như động lực để phát triển trong đạo. Bên cạnh đó, Hòa thượng cũng cho rằng: Hiện nay chư Tôn đức học rất nhiều, nhưng rất ít để ý đến Chơn Lý của Tổ sư, đó là một sự thiếu sót. Chúng ta cần phải hiểu, Chơn Lý là những giáo lý do Tổ sư cô đọng lại của Kinh Luật Luận. Vậy mà nhiều chư Tăng Ni giáo lý kinh điển học rất nhiều, nhưng giáo lý của nhà mình thì lại không nắm vững. Để giúp cho chư Tôn đức hành giả cùng nắm rõ hơn về giáo lý Tổ sư để lại, Hòa thượng chọn đề tài về Nhập định được Tổ sư viết trong cuốn sô 14 của bộ Chơn Lý. Hòa thượng cho rằng, mỗi vị Khất sĩ cần nắm rõ cái gốc gác, tư tưởng truyền thống của Tổ để lại. Qua đó, Hòa thượng trưởng ban mong muốn tha thiết, mỗi huynh đệ ở mỗi khóa tu ráng tìm về cội nguồn của Tổ thầy mình. Làm sao mỗi vị Khất sĩ cần nắm vững tư tưởng của Tổ Thầy, để sau này có sự kế thừa khi chư Tôn đức trưởng lão lớn tuổi thì có các hàng kế tục theo đúng với con đường Tổ sư đã chỉ dạy. Thông qua bộ Chơn Lý: Nhập Định, HT. Giác Toàn với lời giảng mộc mạc, đơn giản và những ví dụ thực tiễn đã giúp cho các hành giả hiểu rõ hơn về cách thức Định theo tư tưởng của Tổ sư Minh Đăng Quang Hòa thượng nhắc nhở các hành giả nên xem lại, mình đi tu theo Tổ sư đã gắn với các ý pháp của Tổ hay không? Đã thật sự buông bỏ tất cả hay chữa? Có đi theo con đường mà Tổ Thầy đã vạch ra hay không? Hay là thân thì ở trong đạo nhưng tâm thì lại ở bên ngoài. Từ đó Hòa thượng cho rằng, mỗi vị hành giả cần phải nắm rõ chánh định, tức là tâm tánh phải y nhất. Đi tu thì phải nhớ mình đã tu rồi, mà đã tu rồi thì phải quyết chí mà tu tập. Chứ đừng có như một người khi vào bếp nhưng không chịu làm gì hết, nhưng đến trưa thì lại muốn có phần ăn như mọi người. Như vậy thì không thể chấp nhận được. Đó chính là tuy đã đi tu nhưng tánh tướng của nhà Phật thì vẫn chưa có hay là chưa chịu hành theo.
Mở đầu bài giảng vào buổi sáng, HT. Giác Hà cho rằng HT. Giác Giới đã đem đến đại chúng bài pháp có nội dung trong kinh, còn HT. Giác Toàn đã hướng các hành giả về giá trị của bộ Chơn Lý của Tổ sư Minh Đăng Quang, nên hôm nay Hòa thượng xin gửi đến đại chúng những lời chia sẻ về đời sống đối với một vị tu tập, vấn đề hành đạo, hướng dẫn và thâu nhận đệ tử… Ngài cho rằng, mỗi vị xuất gia trong đời sống cần phải làm sao cho có sự khéo léo để ngoài việc tu học, còn mở rộng đạo tràng, đạo tạo các thế hệ kế thừa sau này. Theo hòa thượng, hồi xưa người xuất gia trẻ tuổi rất ít, đa số là lớn tuổi. Nhưng ngày nay số lượng tăng sĩ trẻ ngày càng đông, điều này một phần do sự uyển chuyển và sự quan tâm của chư Tôn đức giáo phẩm lãnh đạo Hệ phái. Tuy nhiên hòa thượng cho rằng, số lượng tăng ni ngày càng nhiều nhưng đó chỉ xét về mặt hình thức, còn nội tâm chưa chắc đã lớn. Chính vì thế mỗi chư Tôn đức khi được Giáo hội cho ra hành đạo, trụ trì thì phải biết làm sao hướng dẫn, đào tạo để các thế hệ kế tiếp có số lượng nhưng chất lượng vẫn không đổi. Vị trụ trì cần phải biết khi nhận một người vô tu học thì phải xem mình có dạy được hay không? Có nhiếp chúng được hay không? Mình có thương người đệ tử, có chí tâm day bảo hay không? Có xem người đó như người con, người thân thật sự của mình hay không?... Nếu làm được những điều này thì mới có thể có các thế hệ kế tục cho đạo mạch Phật pháp tăng già. Còn như ngược lại thì tre già nhưng măng không có mọc lại. Mà bản thân mỗi vị nếu như trong đời sống hành đạo mà không làm được việc tạo ra các thế hệ kế tục thì phải cảm thấy mình chưa hoàn thành trách nhiệm mà Tổ thầy giao phó. Bên cạnh đó, Hòa thượng cũng nhấn mạnh, vị trụ trì cần phải hiểu, chùa là của tăng đoàn, của giáo hội chứ không phải của bản thân mình. Vì thế những người theo mình tu học, họ có thể xem xét tư cách và cách làm việc, sự hướng dẫn của mình có đúng chánh pháp hay không? Chứ không phải mình là trụ trì, lớn nhất bắt mọi người phải theo ý của mình. Đó là cách suy nghĩ sai lầm và dễ làm gây tổn hại tới sự phát triển của con đường đạo. Mỗi vị khi được giao trọng trách trụ trì, cần phải nắm được tâm tư của người đệ tử mình, của đại chúng đang nương vào mình tu tập, phải có sự uyển chuyển, thương đệ tử… có như vậy thì mới khiến cho đạo tràng của Tịnh xá ngày càng vững mạnh. Chứ nếu bản thân vị trụ trì có những việc làm, lời nói khiến cho những người đệ tử hay những vị về nương tu học cảm thấy không yên ổn, thì những vị đó dễ thoái bồ đề tâm, xa rời đạo, làm cho đại chúng không ổn định. Riêng các vị tỳ kheo còn trẻ, hòa thượng cũng có nhiều ưu tư. Hòa thượng cho rằng, các vị cần phải quý trọng chiếc y mà mình thọ nhận. Không thể, chư Tôn đức giáo phẩm trao truyền cho y áo, nhưng về tịnh xá một thời gian thì cởi ra mặc bộ đồ vào. Nếu làm vậy thì bản thân không quý trong chiếc y được thọ nhận, bản thân sống không trung thực, giả dối với Tổ thầy… Cho nên, mỗi vị khi đi xuất gia bỏ tất cả để nhận chiếc y vàng giải thoát, tại sao còn muốn quay qua mặc đồ. Từ đó, Hòa thượng nhấn mạnh, giáo pháp chỉ là hướng dẫn, còn lại mọi cái đều do việc hành động của bản thân mỗi người, các vị Tăng trẻ phải để ý điều này. Mọi cái đều do mình tạo, nếu trẻ mà không lo học, không lo tu, sau này gặp những chướng duyên thì không ai có thể cứu đỡ cho mình được. Giống như một người không biết bắn súng mà cho ra chỉ huy chiến trận, chắc chắn những người lính đó chỉ có chết mà thôi. Còn vị tu sĩ, trẻ không lo tu, lo học, lớn lên ra làm trụ trì, không biết gì hết thì chắc chắn khó mà thành công trong con đường hành đạo. Vì thế mỗi vị Tăng sĩ trẻ cần phải có trách nhiệm với việc học hành của mình, y áo nghiêm túc, nghe lời thầy Tổ, còn nếu chỉ lo ăn chơi, không lo học thì chỉ có thất bại, dễ bị dòng đời cuốn ngược trở lại mà thôi.
Mở đầu bài giảng vào buổi sáng, HT. Giác Hà cho rằng HT. Giác Giới đã đem đến đại chúng bài pháp có nội dung trong kinh, còn HT. Giác Toàn đã hướng các hành giả về giá trị của bộ Chơn Lý của Tổ sư Minh Đăng Quang, nên hôm nay Hòa thượng xin gửi đến đại chúng những lời chia sẻ về đời sống đối với một vị tu tập, vấn đề hành đạo, hướng dẫn và thâu nhận đệ tử… Ngài cho rằng, mỗi vị xuất gia trong đời sống cần phải làm sao cho có sự khéo léo để ngoài việc tu học, còn mở rộng đạo tràng, đạo tạo các thế hệ kế thừa sau này. Theo hòa thượng, hồi xưa người xuất gia trẻ tuổi rất ít, đa số là lớn tuổi. Nhưng ngày nay số lượng tăng sĩ trẻ ngày càng đông, điều này một phần do sự uyển chuyển và sự quan tâm của chư Tôn đức giáo phẩm lãnh đạo Hệ phái. Tuy nhiên hòa thượng cho rằng, số lượng tăng ni ngày càng nhiều nhưng đó chỉ xét về mặt hình thức, còn nội tâm chưa chắc đã lớn. Chính vì thế mỗi chư Tôn đức khi được Giáo hội cho ra hành đạo, trụ trì thì phải biết làm sao hướng dẫn, đào tạo để các thế hệ kế tiếp có số lượng nhưng chất lượng vẫn không đổi. Vị trụ trì cần phải biết khi nhận một người vô tu học thì phải xem mình có dạy được hay không? Có nhiếp chúng được hay không? Mình có thương người đệ tử, có chí tâm day bảo hay không? Có xem người đó như người con, người thân thật sự của mình hay không?... Nếu làm được những điều này thì mới có thể có các thế hệ kế tục cho đạo mạch Phật pháp tăng già. Còn như ngược lại thì tre già nhưng măng không có mọc lại. Mà bản thân mỗi vị nếu như trong đời sống hành đạo mà không làm được việc tạo ra các thế hệ kế tục thì phải cảm thấy mình chưa hoàn thành trách nhiệm mà Tổ thầy giao phó. Bên cạnh đó, Hòa thượng cũng nhấn mạnh, vị trụ trì cần phải hiểu, chùa là của tăng đoàn, của giáo hội chứ không phải của bản thân mình. Vì thế những người theo mình tu học, họ có thể xem xét tư cách và cách làm việc, sự hướng dẫn của mình có đúng chánh pháp hay không? Chứ không phải mình là trụ trì, lớn nhất bắt mọi người phải theo ý của mình. Đó là cách suy nghĩ sai lầm và dễ làm gây tổn hại tới sự phát triển của con đường đạo. Mỗi vị khi được giao trọng trách trụ trì, cần phải nắm được tâm tư của người đệ tử mình, của đại chúng đang nương vào mình tu tập, phải có sự uyển chuyển, thương đệ tử… có như vậy thì mới khiến cho đạo tràng của Tịnh xá ngày càng vững mạnh. Chứ nếu bản thân vị trụ trì có những việc làm, lời nói khiến cho những người đệ tử hay những vị về nương tu học cảm thấy không yên ổn, thì những vị đó dễ thoái bồ đề tâm, xa rời đạo, làm cho đại chúng không ổn định. Riêng các vị tỳ kheo còn trẻ, hòa thượng cũng có nhiều ưu tư. Hòa thượng cho rằng, các vị cần phải quý trọng chiếc y mà mình thọ nhận. Không thể, chư Tôn đức giáo phẩm trao truyền cho y áo, nhưng về tịnh xá một thời gian thì cởi ra mặc bộ đồ vào. Nếu làm vậy thì bản thân không quý trong chiếc y được thọ nhận, bản thân sống không trung thực, giả dối với Tổ thầy… Cho nên, mỗi vị khi đi xuất gia bỏ tất cả để nhận chiếc y vàng giải thoát, tại sao còn muốn quay qua mặc đồ. Từ đó, Hòa thượng nhấn mạnh, giáo pháp chỉ là hướng dẫn, còn lại mọi cái đều do việc hành động của bản thân mỗi người, các vị Tăng trẻ phải để ý điều này. Mọi cái đều do mình tạo, nếu trẻ mà không lo học, không lo tu, sau này gặp những chướng duyên thì không ai có thể cứu đỡ cho mình được. Giống như một người không biết bắn súng mà cho ra chỉ huy chiến trận, chắc chắn những người lính đó chỉ có chết mà thôi. Còn vị tu sĩ, trẻ không lo tu, lo học, lớn lên ra làm trụ trì, không biết gì hết thì chắc chắn khó mà thành công trong con đường hành đạo. Vì thế mỗi vị Tăng sĩ trẻ cần phải có trách nhiệm với việc học hành của mình, y áo nghiêm túc, nghe lời thầy Tổ, còn nếu chỉ lo ăn chơi, không lo học thì chỉ có thất bại, dễ bị dòng đời cuốn ngược trở lại mà thôi.
Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt. Nếu không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng đến chùa. Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải thoát, rồi khuyên nhiều người thực hành theo, để cùng nhau tiến bước lên đường giải thoát, an vui.
Đề-bà-đạt-đa được cho là thông minh, nghe rộng, thiền định, tinh tấn giới hạnh, tại lúc hoằng pháp ở nước Ma-kiệt-đà, có rất nhiều thần thông, nhận được sự lễ kính của A-xà-thế sâu sắc, ở một dải thành Vương Xá đều được hai chúng cả tăng lẫn tục tôn quý ngưỡng mộ, tự nhận là cùng với Phật "họ Cù Đàm (Gotama) sinh nhà Thích-ca (Sakya)". Nguyên do mà Đề-bà-đạt-đa lấy danh nghĩa Phật "vì những bốn chúng, giảng dạy lao nhọc", muốn cầu được "khiến tăng thuộc ta, ta đáng lãnh đạo", Đức Phật thì có ngài Xá-lợi-phất là trí tuệ đệ nhất, Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất, đều chưa được từng giao thác trách nhiệm cầm nhận giáo chúng, huống chi Đề-bà-đạt-đa là "kẻ ngu ngốc đáng phỉ nhổ", khiến cho Đề-bà-đạt-đa sinh lòng oán hận, mà những lý giải về giáo nghĩa của Đề-bà-đạt-đa cùng với Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên không giống nhau. Đệ tử của Đề-bà-đạt-đa như Cù-già-lê, Cà-lưu Lô-đề-xá thường hay hủy báng Đức Phật cùng hai vị đại thị giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên. Sau khi A-xà-thế soán đoạt ngôi vị của phụ vương Tần-bà-sa-la, Đề-bà-đạt-đa nhận được sự cung kính lợi dưỡng từ dòng thất nhà vua, địa vị thanh thế ngày càng được nâng cao. Nhân đó "lợi dưỡng và tiếng tăm", phản lại và gây tổn hại cho những người tu hành, với nhà tu dưỡng khổ hạnh như thế càng phải thêm tinh nghiêm, lòng ngã mạn bùng mạnh, càng thêm ngóng cầu quyền lực thống lĩnh tăng chúng. Những đệ tử theo Phật xuất gia, không phân xuất thân chủng tính, thảy đều bình đẳng. Nhưng mà Đức Phật xuất thân trong họ vua Thích-ca, bộ phận tăng chúng họ Thích-ca không tránh khỏi tự cho mình là ưu việt, lấy việc sau khi Thích-ca Phật nhập Niết-bàn sẽ do đó Tỳ-kheo họ Thích Ca thống lĩnh tăng đoàn. Bốn tên bè đảng của Đề-bà-đạt-đa là Tam-văn-đạt-đa, Khiên-đồ-đạt-bà, Cù-già-lê, Cà-lưu Lô-đề-xá đều là xuất thân trong họ Thích Ca [5]; họ ủng hộ "sáu nhóm tỳ-kheo" của Đề-bà-đạt-đa đều là xuất thân trong dòng giống họ Thích,[6] hoặc với Đức Phật có quan hệ mật thiết, mà tự cho mình ưu việt, không cam nguyện tiếp thụ mười phương Tỳ-kheo chỉnh hóa răn dạy. Mà những loại tâm thái của họ bày tỏ đối với Phật Pháp không hợp.
Khi con người đam mê thích thú trên sắc dục thì cũng giống như hai cục nam châm vậy, khi để gần nhau sẽ hút lấy nhau không bao giờ gỡ ra được. Vì do sự vô minh con người không nhận chân được sự thật của khổ đau, cho nên hằng cứ chạy theo cái vòng lẩn quẩn đó.
1.- Sự độc ác do tâm sanh ra, và sẽ trở lại tự hại tâm, cũng như sắt sanh ra chất sét, chất sét sẽ trở lại tiêu hình sắt. 2.- Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy sự tai họa vào thân, đời nay vui lòng lung ý, đời sau mang tội rất nặng. 3.- Bạn tà hại người, tôi nịnh loạn trào, vợ yêu nghiệt phá nhà, và con bất hiếu hại cả cha mẹ. 4.- Lỡ đánh chết người, tội ấy còn có thể dung thứ, dùng tâm độc âm mưu để hại người, tâm niệm ấy không nên gần. 5.- Nói pháp cho người ngây nghe, cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ, thì không thể khuyên giảng.
Danh thơm, tiếng lành của một người con Phật chân chính được ca ngợi, đồn xa. Khi một người phát tâm quay về sống nương tựa Tam bảo, giữ gìn năm giới, thực hành các hạnh lành, tránh xa những điều ác đồng thời nhân ái với mọi người thì tự thân người ấy tỏa ra hương thơm đức hạnh, bay khắp muôn phương.
Thiện và ác là hai phạm trù hoàn toàn đối lập với nhau. Thiện là những việc ở ngoài ánh sáng và đúng với công lý, đạo đức còn ác là ngược lại, đó là những hành động sai trái, không đúng cũng như có thể gây nên nhiều hậu quả xấu đối với mọi người. Cái thiện và cái ác luôn đối lập nhau, kích nhau cũng như cạnh tranh nhau và biểu hiện rõ ràng trong cuộc sống hằng ngày.
MƯỜI TRIỆU CHỨNG VỀ ĐÀN BÀ NGỤY ÁC 1. Đầu tóc rối và bới nghiêng một bên 2.Mặt hay biến sắc và mồ hôi tự nhiên chảy 3. Lớn tiếng nói cười 4. Hay liếc ngó 5. Trang sức lộng lẫy 6.Hay nhìn trộm qua kẽ vách 7. Ngồi không yên 8. Hay dạo chơi trong xóm làng 9. Hay đi dạo chơi ngoài đồng vắng 10. Hay giao thiệp với hạng dâm nữ.
Chúng ta tự biết lượng sức mình để hòa nhập với xã hội mà không đánh mất chính mình để dấn thân đóng góp vì lợi ích chung với tinh thần tốt đời đẹp đạo. Cuộc đời giống như cái cân, đánh giá bản thân mình quá thấp thì dễ tự ti mặc cảm mà không giúp gì được cho ai. Tự thấy mình hơn người thì dễ mắc phạm những sai lầm đáng tiếc như cống cao ngã mạn, coi thường thiên hạ. Vậy, con người sợ nhất là cái gì? Sợ nhất là bản thân mình, nếu ta quan niệm sai lầm cho rằng chết là hết, thì ta sẽ dễ dàng làm nhiều điều xấu ác, vì ta không tin nhân quả. Chút lòng thành, xin mọi người hãy cùng nhau suy ngẫm để ta và người sống tốt hơn!
Tâm có lặng thì trí mới sáng, con người mới làm chủ được mình. Làm chủ được mình mới làm chủ được hoàn cảnh, hướng cuộc sống cộng đồng đến chân thiện mỹ. Hơn nữa, làm chủ được mình là người tự chiến thắng mình. Và tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất của người chiến sĩ trên trận mạc tâm linh. Đồng thời có làm chủ được mình mới nắm vững cơ chế vận hành của nghiệp, biết rõ đường đi lối về của cái vòng sanh lão bệnh tử, nhân quả luân hồi… và làm chủ luôn cả cơ chế vận hành ấy.
MƯỜI HẠNH TỐT CỦA BẬC ĐẠI HIỀN 1.Học rộng hiểu nhiều. 2.Không phạm giới luật trong kinh dạy. 3.Kính thờ Tam Bảo. 4.Thọ lãnh pháp lành không quên. 5.Kiềm chế được tham, sân, si. 6.Tu tập được pháp tứ đẳng tâm. 7.Ưa làm việc ân đức. 8.Không nhiễm hại chúng sanh. 9.Hay hóa độ được người bất nghĩa. 10.Không lẫn lộn việc thiện, việc ác.
NÃO HẠI: Tâm giận dữ, bực tức muốn làm hại người mình giận. Phiền não: mốn ưu phiền, làm não loạn thân tâm. Đạo Phật cho rằng có ba món phiền não chính, căn bản là tham, sân (giận) và si (mê) là ba món độc
Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết.
BỐN SỰ LẦM 1. Sau khi người chết tâm hồn diệt mất luôn 2. Giàu nghèo vui khổ đều do trời định 3. Làm lành không được phước, làm ác không tai họa 4. Tự ỷ mình biết xem tinh tú địa lý, thiên văn.
“Phản quan tự kỷ” là nền tảng của tất cả người tu Phật chúng ta. Nếu mình làm chưa nổi trường hợp thứ nhất, thì phải theo trường hợp thứ hai, tức là phản quan tự kỷ. Chừng nào nội tâm trong sạch, yên lặng hết mới bước qua trình độ thứ nhất là hồi quang phản chiếu. Đi đứng nằm ngồi mà không dính nghiệp gì hết. Thấy như mù, nghe như điếc, đó là tự tại vô ngại.
Này các Tỷ-kheo, Thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể mong đợi.
“Hạnh phúc không nằm ở đích tới mà nằm trên con đường chúng ta đi đến đích.” Ai cũng có những điều ước, ước mơ của riêng mình. Ước mơ có thể là những nhu cầu bình thường, giản đơn. Nhắc tới điều ước tôi lại nhớ về hình ảnh “cô bé bán diêm”. Em bé đáng thương, giữa trời tuyết rơi phủ kín đường và cả lên tóc em, bụng đói mà vẫn phải lang thang trên đường... Những que diêm và “điều ước mộng mị” trong cái lạnh về đêm. Đôi khi, ước mơ chỉ là một điều ước nhỏ bé, thật dễ dàng với người này nhưng lại quá khó khăn với người kia, có khi điều ước là có một chỗ thật ấm áp để tránh cái giá lạnh đầu đông hay chỉ là một chiếc bánh nhỏ chống đói, chưa nói tới những điều ước xa vời vợi.
Việc thực hiện con đường đi ra khỏi “tham, sân, si” luôn luôn được Đức Phật quan tâm và khuyến khích các đệ tử của Ngài hành trì để từ đó các pháp an lạc được tăng trưởng và các pháp khổ đau được diệt trừ. Nếu không khéo hành trì thì không những các khổ đau tăng trưởng mà các thiện pháp cũng bị tiêu trừ. Nếu ai ráng tu tập và trau dồi tâm trí để thoát khỏi vòng phiền não “tham, sân, si” tất nhiên người ấy sẽ được hoàn toàn giải thoát.
Ai được khen tức là người hiền ở có đức, thanh tịnh, dè dặt, khiêm tốn và cứ tầm học thêm mãi. Ai được khen tức là người có nghị lực và sốt sắng, nghèo cũng không rúng động, và không đổi tánh, kiên nhẫn và khôn ngoan. Ai được tôn trọng tức là người lành, dễ thương, biết ơn, có nhơn, đứng ra chỉ giáo, dạy dỗ, dắt dẫn người đời. Lòng nhơn, cách khôn khéo, lòng lành bao giờ cũng phải có, và để xử với mọi vật, những cái đó có ở đời cũng như cái cốt ở trong xe.
“Loài người sợ hoảng hốt, Tìm nhiều chỗ quy y, Hoặc rừng rậm, núi non, Hoặc vườn cây, đền tháp.” “Quy y ấy không ổn, Không quy y tối thượng. Quy y các chỗ ấy, Không thoát mọi khổ đau.” “Ai quy y Ðức Phật, Chánh pháp và chư tăng, Ai dùng chánh tri kiến, Thấy được bốn Thánh đế.” “Thấy khổ và khổ tập, Thấy sự khổ vượt qua, Thấy đường Thánh tám ngành, Ðưa đến khổ não tận.” “Thật quy y an ổn, Thật quy y tối thượng, Có quy y như vậy, Mới thoát mọi khổ đau.”
Luân Hồi (Srt, Pa. Samsara; Hv. 輪迴 ), theo tiếng Sanskrit thì Samsara có nghĩa là lang thang (wandering) với ý nghĩa của vòng lẩn quẩn luôn thay đổi. Trong thời đại Veda đã được giải thích trong các cuốn Kinh Veda và được triển khai trong Kinh Upanishad vào khoảng 1500 trước CN. Theo Ấn độ giáo và Phật giáo thì luân hồi (samsara) là một vòng bất tận của sanh, tử và tái sanh; và bị chi phối bởi luật nhân quả.
Vu Lan Bồn, phiên âm từ chữ Phạn là Uilambana (Hành sự). Còn gọi là Ô lam bà noa. Dịch là Đảo huyền, chỉ nỗi đau khổ cùng cực. Trong quyển Huyền Ứng Âm Nghĩa 13 có giải thích như sau: “Vu lan bồn, là nói sai. Nói đúng là Ô lam bà noa, dịch là Đảo huyền.  Theo phép nước Tây Trúc vào ngày Tự Tứ của Chư tăng, người ta mua sắm thực phẩm, đặt cổ bàn linh đình, dâng cúng Phật Tăng để cứu cái khổ treo ngược (đảo huyền) của người đã mất. Xưa nói là một cái chậu đựng thức ăn, đó là nói sai”. Vu Lan Bồn Kinh Sớ Tông Mật nói: “Vu Lan là từ ngữ của Tây Vực, nghĩa là Đảo huyền, bồn là âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng cứu chữa. Nếu theo cách nói của địa phương thì phải nói là cứu đảo huyền bồn.” 
Con thấy một số chư Thiên, đại Thiên-Thần sau khi vui thú ngũ dục thì dần dần lần lượt mạng chung (chết). Thấy như thế xong, con đâm ra sợ hãi cùng cực, không biết làm sao, con bèn hội họp chư Thiên lại thảo luận để tìm nguyên nhân, nhưng chẳng ai biết được! Con bèn đi tìm những vị Thánh ở thế-gian để hỏi, con thấy Sa-môn, Bà-la-Môn ở nơi thanh vắng tu hành lánh tục, con liền đến chỗ ấy mà hỏi: “Thế nào là cứu cánh của một vị tu hành ?”. Khi con hỏi như thế, người ấy không đáp được, đâm ra lúng túng, lại còn hỏi ngược lại con: “Ông là ai?” Con đáp: “Tôi là Thích-đề-hoàn-nhân”. Họ lại hỏi: “Ông là Thích, mà là Thích gì ?” . Con lại đáp: “Tôi là Vua Trời Thích (Thiên Đế-Thích)”. Khi đó, con và họ cứ theo sự hiểu biết của mình mà nói qua nói lại một hồi, kết quả chẳng đi đến đâu. Xong, họ lại tự nguyện xin làm đệ-tử của con! Do đó sự thắc mắc ấy vẫn giữ mãi trong tâm cho tới nay mới được Thế-Tôn giải mối nghi to lớn của con.
ĐỆ TỬ THỜ THẦY DẠY ĐẠO CÓ 5 CÁCH 1. Bao giờ về việc làm, lời nói và tư tưởng, phải giữ cho thương yêu và cung kính thầy 2. Vâng lời thầy dạy bảo và hầu hạ thầy 3. Hỏi về mấy chỗ đạo lý mình chưa thông 4. Nghiệm xét những lời thầy truyền 5. Và ra công tham thiền những đề thầy đã ra.
Kinh Ưu-bà-tắc giới dạy rằng: “Nếu người nào có quan hệ tình dục vào thời gian không thích hợp, hoặc ở địa điểm không thích hợp, hoặc quan hệ với người đồng tính, hoặc với phụ nữ chưa chồng, đều gọi là tà dâm. Nếu quan hệ với vợ mình mà nghĩ tưởng đến vợ người khác, hoặc quan hệ với vợ người khác mà nghĩ tưởng xem như vợ mình, đó cũng là tà dâm. Những sự tà dâm như thế cũng có phân ra nặng nhẹ khác nhau. Do phiền não nặng nề, ắt phải chịu tội báo nặng nề. Do phiền não kém nặng nề hơn, ắt chịu tội báo kém nặng nề hơn.”
Sáng qua, 15-8 (15-7-Kỷ Hợi) tại giảng đường Pháp viện Minh Đăng Quang (505 Xa Lộ Hà Nội, Q.2, TP.HCM) đã trang nghiêm diễn ra lễ dâng cúng pháp y ca-sa và Vu lan Báo hiếu PL.2563 - DL.2019.
Tu hành là đi tìm lại “bản lai diện mục” của chính mình, tức là đi tìm thấy khuôn mặt thật của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Nếu người tu hành chưa sáng tỏ việc này thì khác gì mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được, thì làm sao có thể khai mở trí huệ?
Có bốn cách tỏ ra là đứa bạn giả: 1. Nó khen mình khi mình làm bậy 2. Nó khen mình khi mình làm phải 3. Nó khen mình trước mặt 4. Và nó chê mình sau lưng mình.
"Tâm là đất gieo hạt Mọi hạt giống chứa đầy Tâm địa cũng chính là Toàn thể hạt giống ấy". Tâm là đất gieo hạt. Đất ở đây là một hình ảnh. Nếu muốn giữ gìn những hạt giống thì phải có cái gì để cất chứa. Không có gì cất chứa hay bằng đất. Đất có khả năng giữ gìn, bảo trì những hạt giống. Tâm cũng có khả năng giữ gìn, bảo trì những hạt giống. Mọi hạt giống chứa đầy. Tâm có thể chứa đủ tất cả các loại hạt giống. Hạt giống Ma, hạt giống Bụt. Hạt giống thánh nhân, hạt giống phàm phu. Hạt giống của sự trung kiên, hạt giống của sự phản bội. Chúng ta có thể trở thành thánh nhân hay đạo tặc vì có những hạt giống này trong tâm. Khi một người được mô tả như là một người trung kiên không có nghĩa là trong người đó không có hạt giống phản bội. Người kia có tâm niệm cởi mở tha thứ không có nghĩa là người đó không có các hạt giống hận thù và nhỏ nhen. Vấn đề là ở sự chăm sóc. Nếu cẩn thận thì hạt giống thánh nhân được giữ gìn tăng trưởng và hạt giống phàm phu sẽ nhỏ đi, sẽ trở thành không quan trọng, không phát hiện lên được. Nếu hạt giống phàm phu được tưới tẩm thì người đó sẽ trở nên phàm phu. Không tưới thì thôi, tưới thì mọc rất nhanh. Tâm ta có những hạt giống tốt và những hạt giống xấu. Chúng đã được chính ta hoặc tổ tiên, cha mẹ, nhà trường và xã hội gieo trồng. Nếu bạn hành động thiện lành, bạn được sung sướng. Khi bạn có những hành động bất thiện, bạn tưới tẩm những hạt giống tham, sân, si và bạo động trong bạn và trong người khác. Thực tập chánh niệm giúp ta nhận diện được tất cả các hạt giống trong tâm và với sự hiểu biết đó, ta có thể chọn để chỉ tưới tẩm những gì tốt nhất cho ta. Khi ta nuôi dưỡng những hạt giống an lạc và chuyển hóa các hạt giống khổ đau thì các hạt giống hiểu biết và thương yêu sẽ nở hoa. Khi gặp người xấu xa, đạo tặc ta cũng không nản lòng vì biết thế nào trong người này cũng có hạt giống của đức tính tốt và cố gắng làm sao tưới tẩm những hạt giống tốt mà ta nghĩ là quá yếu ớt nơi người đó.
Bình an là sự cân bằng và yên ổn cả thân lẫn tâm. Đôi khi trong cuộc sống chúng ta phải đối mặt với những hoàn cảnh khiến tâm chúng ta bất an dẫn đến những xung đột vượt quá sự kiểm soát của tâm. Để ngăn chặn xung đột, chúng ta nên có cuộc đối thoại để đi đến sự hòa giải. Đôi lúc chúng ta có thể thay đổi cách nhìn nhận vấn đề để chuyển hóa những mâu thuẫn. Với lòng từ bi và trí tuệ rộng lớn, Phật giáo mở ra nhiều phương pháp để giải quyết các xung đột. Khi chúng ta hành trì tu tập, sự bình an sẽ hiện hữu, các pháp thiện được phát sinh. Chúng ta sử dụng sự bình an này soi lại nội tâm để thấy sự sân hận là pháp bất thiện, là con đường đưa đến sự đau khổ. Khi sự bất an, đau khổ khởi sanh chúng ta tìm hiểu nguyên nhân do đâu. Từ đó, mỗi người tự tìm ra phương pháp hóa giải những đau khổ trong đời sống nội tâm của chính mình. Đây là con đường đưa đến sự bình an tối thượng, trí tuệ cũng từ đó phát sinh.
Tu giải thoát còn mang ý nghĩa là chúng ta hành trì tu tập để được giải thoát ngay trong đời sống hiện tại này. Nghĩa là Tâm chúng ta không dính mắc với những đam mê vật chất, không dính mắc với những tri kiến thế gian, không đắm chìm trong hạnh phúc dục lạc cũng không bị phiền não vây bủa. Nếu Tâm của chúng ta hoàn toàn không bị trói buộc với bất cứ vui buồn hạnh phúc khổ đau của thế gian thì Tâm được giải thoát, tức là tuy còn sống trong đời sống nhiểu nhương, mà Tâm thì vẫn an nhiên tự tại trong trạng thái Hữu Dư Niết Bàn.
Có bốn cách tỏ ra là đứa bạn giả: 1. Nó đeo theo ta mà lấy của 2. Nó bắt ta đưa ra nhiều mà nó phát ra ít 3. Nó làm bộ ở thật là bởi nó sợ ta mà thôi 4. Và nó giúp ta vì mối lợi của nó.
Có định ta mới dám tin chắc ta là trọn lành, không lầm lạc rối loạn ác quấy. Định nơi lẽ chánh, thiện sẽ đến kết quả an lạc nghỉ ngơi đại định. Bằng nhứt định nơi sự ác tà, ắt phải gặp rối khổ lao chao đại loạn. Cho nên gọi sự quyết định hay nhứt định là cái định yên lặng.
Khi thương yêu có trí tuệ, có chất liệu thì hạnh phúc được hình thành và ngược lại. Vì lẽ đó mà đạo Phật dạy về từ bi-trí tuệ trong diệu nghĩa tình thương phải đi kèm với hiểu biết, nếu không nó sẽ trở thành thứ tình thương phá phách, tàn hại mình và người…
ọc Phật để hiểu đúng nghĩa lý là điều khó. Người bạn kia nhờ có chút thiện căn trong quá khứ nên học hiểu và ghi nhớ khá nhanh. Nhưng chỉ học thuộc và hiểu kinh giáo thôi thì đang ở nấc thang đầu tiên. Giống như người xem bản đồ, nắm vững lộ trình, biết rõ đích đến nhưng không hề bước đi thì chẳng bao giờ đến đích. Học hiểu là thức tri, mà thức tri là nghiệp lực, luôn bị vô minh và tà kiến che lấp. Nên thức tri dù cao rộng đến đâu đi nữa (bằng cấp, học vị cao nhất) cũng không vượt ra ngoài vòng cương tỏa và chi phối của nghiệp lực. Người tu học Phật thì luôn nỗ lực để vượt lên thức tri nhằm thành tựu thắng tri và liễu tri. Nên những ai mà có đôi chút kiến thức rồi cống cao tự mãn hơn người thì lợi bất cập hại, đôi khi đó chính là tai họa.
CỜ BẠC SANH RA 6 CÁI HẠI 1. Ăn thì tham 2. Thua thì buồn 3. Nó phá lần gia sản của nó 4. Nó thưa quan không nghe 5. Cha mẹ bà con và quen lớn khinh khi nó 6. Người ta không gả con cho nó, vì lời tục có nói: “Kẻ đánh bạc không nuôi nổi người đàn bà”.
Báo đáp Tứ trọng ân là bốn ân lớn nhất, trọng đại nhất của đời người mà bất cứ ai cũng không thể nguôi quên. Với dân tộc Việt Nam,  một đất nước  bốn nghìn năm văn hiến,  đạo hiếu là tinh thần văn hóa bất di bất dịch đối với đời sống đạo đức con người. Ý nghĩa Vu Lan là đỉnh cao của chân thiện mỹ,  xây dựng đời sống tri thức cộng đồng, phát triển nhân sinh xã hội qua bốn phương diện gọi là Tứ trọng Ân : Ân Cha Mẹ - Ân Tam Bảo Sư Trưởng – Ân quốc gia Xã Hội – Ân chúng sanh vạn loại.
Tu thiền trí huệ sanh / Bỏ thiền trí huệ diệt / Biết con đường hai ngã / Đưa đến hữu phi hữu / Hãy tự mình nỗ lực / Khiến trí huệ tăng trưởng.
Tối ngày 18 tháng 6 năm Kỷ Hợi (20/7/2019), tại Giảng đường Pháp viện Minh Đăng Quang, chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái Khất sĩ “Tưởng nhớ Thầy” – Ôn lại cuộc đời đạo nghiệp của cố Đại lão Hòa thượng Giác Nhiên nhân lễ Tưởng niệm lần thứ 4 đức Ngài viên tịch (19/6 âl 2015 – 19/6 âl 2019). Chứng minh và tham dự đêm tưởng niệm có: HT. Giác Tường, HT. Giác Ngộ, HT. Giác Lai - Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Toàn – Trưởng ban Ban Thường trực Giáo phẩm HP, trụ trì Pháp viện MĐQ, Trưởng ban Tổ chức; HT. Minh Thuấn, HT. Minh Bửu – Giáo phẩm Hệ phái, Phó trụ trì Pháp viện MĐQ; TT. Minh Lộc – Giáo phẩm HP, Chánh Thư ký Giáo đoàn IV, Tri sự Tịnh xá Trung Tâm (BT); ĐĐ. Giác Hoàng – Phó Thư ký HP; NT. Thông Liên, NT. Mai Liên; cùng chư Tôn đức Tăng Ni hệ phái và Phật tử gần xa.
Sáng ngày 19/6 Kỷ Hợi (21/7/2019), tại Pháp viện Minh Đăng Quang, chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái Khất sĩ trang nghiêm tưởng niệm lần thứ tư Đại lão Hòa thượng Pháp sư Giác Nhiên viên tịch. Chứng minh tham dự buổi lễ có: Hòa thượng Giác Tường, HT. Giác Ngộ, HT. Giác Phúc, HT. Giác Giới, HT. Giác Hà, HT. Giác Truyền – Giáo phẩm chứng minh Hệ phái; HT. Giác Toàn – Trưởng ban Ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái; HT. Giác Pháp – Chánh Thư ký Hệ phái; chư Tôn Hòa thượng Thượng tọa Giáo phẩm Hệ phái: HT. Minh Bửu, HT. Minh Thuấn, HT. Giác Hùng, HT. Giác Minh (GĐ.II), HT. Giác Trong, TT. Minh Thành, TT. Minh Lộc; chư Tôn đức Tăng các Giáo đoàn đồng về Tưởng niệm. Về phía chư Ni, có quý Ni trưởng Giáo phẩm Ni giới Hệ phái: NT. Chiêu Liên, NT. Thông Liên, NT. Mai Liên, NT. Hiếu Liên; quý Ni sư, Sư cô Ni giới Hệ phái và Ni giới Giáo đoàn IV; cùng đông đảo Phật tử gần xa vì niềm kính thương đức Pháp sư cũng về tham dự.
Như chúng ta đã rõ: thể của võ trũ là một cõi thăm thẳm, tối đen, bao la, vô cực. Trong ấy có vô số quả địa cầu. Mỗi quả địa cầu đối với võ trụ, cũng như mỗi mạng sống chúng ta, đối với quả địa cầu, nghĩa là một vật rất nhỏ, đối với một vật rất to; thì lẽ sanh hóa hay tàn tiêu của mỗi quả địa cầu đối với võ trụ vẫn là thường lắm, tự nhiên lắm. Khác nào sự tử, sự sanh của ta đối với trái đất bao la.
Bài giảng tại chùa Linh Sơn Pháp Ấn (Khánh Hoà) vào 19/4/2013
Tu là sửa đổi cho được tốt hơn, là dừng lại, là chuyển hóa cái tri thức sai lầm về thực tại. Vì tri thức sai lầm, chúng ta phát sinh tham, sân, si rồi hành động tạo nghiệp. Có chính kiến chúng ta sẽ thay đổi thái độ với vạn vật, nhờ đó thế giới trở nên an lành, vui tươi , hạnh phúc hơn. Khi tâm ta không còn bị tham sân si điều khiển, khi tâm ta không còn vướng mắc với những cảm thọ chấp, ngã, chúng ta sẽ đạt đến Niết Bàn. Đó là một trạng thái yên bình tối thượng, thanh tịnh, tự tại, giải thoát ở kiếp này, nhờ đó Nghiệp Lực chấm dứt, không còn sức lôi dẫn chúng ta luân hồi trong lục đạo ở kiếp sau.
SÁU CÁCH PHÁ TAN CỦA CẢI 1. Vô độ 3. Chơi bạn xấu 5. Biếng nhác 2. Ham hát xướng yến tiệc hội hàng 4. Cờ bạc 6. Đi đêm.
Tình cảm cha mẹ, là một tình cảm thiêng liêng, cao quý luôn hiện hữu trong mỗi người con dành cho đấng sinh thành của mình. “Lên non mới biết non cao, Có con mới biết công lao mẹ già”. Tình yêu của người mẹ hiền dành cho mỗi chúng ta, không thể nói hết bằng lời. Và cho dù có đi, ở đâu thì đúng thật, không ai tốt, chăm sóc, lo lắng cho chúng ta bằng chính cha mẹ.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (TP.Tân An, Long An) vào ngày 16/10/2017
1. Cả đời chỉ lo coi bữa nay người ta khiêu vũ ở đâu. 2. Người ta ca ở đâu. 3. Người ta đánh nhạc ở đâu. 4. Người ta hát ở đâu. 5. Người ta múa ở đâu. 6. Và có cái gì ở đâu đặng coi hay không.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 9/10/2016
Bài giảng tại chùa Bửu Lâm (Tiền Giang) vào ngày 14/5/Bính Thân
Như cõi đời hôm nay, giờ chơi đã hết rồi, bây giờ phải chăm chỉ học hành. Trường học thế giới đã mở cửa là chiến tranh. Học sanh xưa nay bỏ học quên tu lu bù lem lấm, bỏ đạo theo đời, rối khổ mệt nhọc. Nay là lúc phải bỏ ham chơi, đi tìm học, đặng tìm hạnh phúc sự sống trở lại yên vui.
Đạo Phật là con đường đi đến quả Phật giác chơn. Con đường ấy là Khất sĩ. Họ của chư Phật ba đời là Khất sĩ, Khất sĩ là lẽ thật của chúng sanh, mục đích của chúng sanh. Khất sĩ là đến với giác chơn, toàn học biết sáng tự nhiên, hết mê lầm vọng động. Khất là xin, sĩ là học, sống là xin, ai ai cũng là đang sống xin, để cho được cái học cái biết, xin sống là để cho nên cái biết, biết ấy là học, cho biết lẽ thật, để thấy ra mục đích đặng thật hành theo, cho được sự giải thoát khổ não của vô thường, và tạo nên cái ta của ta an vui bền thật, hầu tránh xa sự nô lệ không công, tham sân si vô nghĩa lý.
Đạo Phật là con đường đi đến quả Phật giác chơn. Con đường ấy là Khất sĩ. Họ của chư Phật ba đời là Khất sĩ, Khất sĩ là lẽ thật của chúng sanh, mục đích của chúng sanh. Khất sĩ là đến với giác chơn, toàn học biết sáng tự nhiên, hết mê lầm vọng động. Khất là xin, sĩ là học, sống là xin, ai ai cũng là đang sống xin, để cho được cái học cái biết, xin sống là để cho nên cái biết, biết ấy là học, cho biết lẽ thật, để thấy ra mục đích đặng thật hành theo, cho được sự giải thoát khổ não của vô thường, và tạo nên cái ta của ta an vui bền thật, hầu tránh xa sự nô lệ không công, tham sân si vô nghĩa lý.
Này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Và này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo, nội tâm có tham dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có tham dục"; hay nội tâm không có tham dục, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có tham dục". Và với tham dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với tham dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với tham dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có sân hận." Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với sân hận đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có nghi." Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với nghi đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy, và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên cả các nội pháp, ngoại pháp. Hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ kheo, như vậy Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp, đối với năm triền cái.
Này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Và này các Tỷ kheo, thế nào là vị Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo, nội tâm có tham dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có tham dục"; hay nội tâm không có tham dục, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có tham dục". Và với tham dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với tham dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với tham dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có sân hận." Và với sân hận chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với sân hận đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với hôn trầm thụy miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với hôn trầm thụy miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội tâm không có trạo hối, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri rằng: "Nội tâm tôi không có nghi." Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy. Và với nghi đã sanh, nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy, và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên cả các nội pháp, ngoại pháp. Hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ kheo, như vậy Tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp, đối với năm triền cái.
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long)
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long)
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 16/04/2017
Bài giảng tại thiền viện Ngọc Hạnh (Vĩnh Long) vào ngày 08/09/Giáp Ngọ
Trường đạo đức võ trụ, chúng sanh là học trò chung, các lớp chung, càng nhiều rộng, càng quý ích, để dắt người từ bực, bước lên đến mục đích chung, là sáng suốt hiền lương, và khỏi khổ. Giải thoát từng lớp để tiến đến sự giải thoát hoàn toàn, mà thiết tưởng mỗi người, chắc không ai có ý gì muốn trói buộc, để làm trễ nãi cuộc tiến hóa chung. Ấy thế, khất sĩ là một lớp trong nhiêàu lớp, không phải hiệp, không phải chia.
Chúng ta đây, mỗi người đều có thân thể, thân thể ấy, tức là một khối vi trùng, vi trùng thấy, vi trùng nghe, vi trùng hưởi, vi trùng nếm, vi trùng rờ, vi trùng tưởng, vi trùng nữ, vi trùng nam, vi trùng đen, vi trùng trắng v.v… đủ thứ vi trùng đang tranh đấu. Ví như vi trùng đi thắng, thì nó lôi chơn đi; vi trùng nói thắng nó bắt nói, vi trùng nữ thắng, là người nam móng dục tâm, biến thành nữ, vi trùng nam thắng, là người nữ móng dục tâm, biến thành nam, vi trùng tham sân si, làm cho ham muốn, giận hờn mê muội… các vi trùng ấy cũng gọi là giác trùng vì cả thảy đều có giác tánh, là biết.
Chúng ta đây, mỗi người đều có thân thể, thân thể ấy, tức là một khối vi trùng, vi trùng thấy, vi trùng nghe, vi trùng hưởi, vi trùng nếm, vi trùng rờ, vi trùng tưởng, vi trùng nữ, vi trùng nam, vi trùng đen, vi trùng trắng v.v… đủ thứ vi trùng đang tranh đấu. Ví như vi trùng đi thắng, thì nó lôi chơn đi; vi trùng nói thắng nó bắt nói, vi trùng nữ thắng, là người nam móng dục tâm, biến thành nữ, vi trùng nam thắng, là người nữ móng dục tâm, biến thành nam, vi trùng tham sân si, làm cho ham muốn, giận hờn mê muội… các vi trùng ấy cũng gọi là giác trùng vì cả thảy đều có giác tánh, là biết.
Này các Tỷ kheo, ở nơi đây Tỷ kheo khi cảm giác lạc thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ". Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất".
Này các Tỷ kheo, ở nơi đây Tỷ kheo khi cảm giác lạc thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ". Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, biết rằng: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất".
Bài giảng tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long)
Bài giảng tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long)
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 25/9/2016
Bài giảng tại chùa Pháp Bảo (Bến Lức, Long An) vào ngày 17/5/2014
Vả chăng cõi đời trường học, có đủ nhiều lớp, từ thấp đến cao để dắt người, từ ác, đến thiện, đến huệ, đến giải thoát, đến Niết bàn, mà giáo pháp khất sĩ lại là mức cao viễn cuối cùng tối thượng! Người được đây là đã phải trãi qua bao lớp học của các tông giáo cư sĩ; thế là các phái môn đàng nào cũng hữu ích cả. Bởi Giáo hội Tăng già Khất sĩ tu Giới Định Huệ, không có sự học, nương văn tự của bước đầu. Khất sĩ là pháp tu hành sau sự tập học của cư sĩ, chỉ là một lớp riêng rất ít của chúng sanh. Thế nên chư Tăng không bỏ những ai muốn theo, nếu có thể giữ giới luật được, mặc dầu cư sĩ nào muốn bước vào, và không bao giờ thâu nhận số đông lớp yếu nhỏ.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 05/03/2017
Bài giảng tại chùa Bửu Lâm (Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 14/10/2015
Chúng tôi du tăng khất thực, sống với lẽ chung của tất cả chúng sanh, theo chơn lý võ trụ, không phân chia chủng tộc, màu da, phái môn, giai cấp, bần phú, sang hèn, cỏ cây, thú, người, Tăng, Phật. Mục đích của chánh đẳng chánh giác, quyết đến nẻo giải thoát hoàn toàn, không vì nhỏ hẹp mà đem mình vào sự trói buộc phiền não. Vậy nên theo giới luật Phật xưa, nhà tăng không ở một chỗ thâu nhận tín đồ bổn đạo riêng, mà phải vân du khắp nơi cùng xứ, vừa học với tất cả mọi người, vừa đem sự học của mình giúp ích cho ai nấy trao đổi lẫn nhau, để cho sự học nhờ kinh nghiệm trong chỗ hành, mà chóng được đủ đầy toàn giác.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Q.Tân Bình) vào ngày 30/4/2017
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân vào ngày 02/08/2017
Bài giảng tại chùa Bửu Lâm: Con cái phải có duyên thì chúng mới đầu thai vào nhà. Chúng nó chẳng có duyên sẽ chẳng đầu thai vào nhà. Nói cách khác, chúng nó đi đầu thai, phải tìm đối tượng. Mong cầu chúng nó, chưa chắc chúng nó đã để ý. Vậy nhân duyên con cái - cha mẹ thế nào? Đó chính là mối quan hệ trong đời quá khứ.
Tịnh xá Ngọc Quang được hình thành từ thập niên 50 của thế kỷ 19 và đã qua nhiều lần tu bổ, thời gian trước năm 1975 nơi đây thường bị bom đạn của giặc tàn phá nên ngôi tịnh xá có lúc bị hư hại nặng nề. Năm 1976, NT. Tân Liên tiếp nhận trụ trì và đã từng bước trùng tu xây dựng lại; Tuy vậy, do sự tàn phá của thời gian, lại là những lần tu sửa chấp vá nên ngôi tịnh xá thiếu phần thẩm mỹ, không đủ phục vụ cho các sự kiện lễ hội và các khóa tu tập diễn ra, với tâm nguyện của một vị trụ trì, Ni trưởng Tân Liên đã quyết định khởi công đại trùng tu TX. Ngọc Quang từ ngày 16/2/2017.
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 19/3/2017
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường vào ngày 8/11/2016
“Thân người khó được, Phật pháp khó nghe". Một người quy y Tam Bảo là một người có đủ duyên lành để giác ngộ, để tiếp cận Phật pháp, để hồi đầu quy hướng về Tam Bảo, để bắt đầu làm mới lại con người của mình trong việc tu học và hoàn thiện nhân cách đạo đức. Đây là điều kiện tốt để chúng ta bước ra khỏi những sai lầm, những ràng buộc do vô minh, do tập quán thói quen của cuộc đời trước đó đã đẩy ta vào vòng lẩn quẩn của khổ đau.
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 04/09/2016
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (TP.Tân An, Long An) vào ngày 16/01/2017
Tại sao mùa xuân là mùa tu phước? Tại vì đó là mùa thiên nhiên đất trời thanh tân, trầm lúc đông về, để rồi xuân tới bừng dậy nắng ấm, cây cối trổ lộc ra hoa. Mùa xuân mang đến người niềm vui và chia đều nó ra. Tuy nhiên, niềm vui ấy cũng ảnh hưởng từ cái gọi là nghiệp… Cuối năm ngồi tính lại sổ đời, làm ăn thế nào đó có người cười vui, kẻ thua lỗ khóc thầm. Thành ra niềm vui mang tới coi như ai cũng có phần, nhưng với người nghèo là cái vui gượng gạo. Chẳng như vậy rất nhiều kẻ lại chẳng có mùa xuân phải đóng cửa bỏ nhà đi trốn nợ. Có thể nói, ngày thường khổ một, Tết đến khổ tăng lên trăm lần. Chính vì vậy, vào những tháng cuối năm, xã hội nổi lên nhiều phong trào làm từ thiện, hỗ trợ người nghèo, Tết tình thương.
Chơn lý của võ trụ là yên lặng. Yên lặng là lẽ thật, là huyền bí, là không vọng động, nên cũng gọi là chơn như hay sự kín đáo. Định tức là mật, trong mật định có chứa linh, giác và thần. Cho nên gọi định năng sanh chơn huệ và giới. Định là chánh, loạn là tà, nên mới có tên chánh định; và cũng là có chánh mới có định, chánh định là Niết-bàn, tâm người trở lại chánh định chơn như sau khi toàn giác, gọi là Như Lai hay là Phật. Thế nên chánh định là chỗ sanh ra tất cả chúng sanh, vạn vật và các pháp, mà cũng là chỗ trở về hay chỗ đến nghỉ ngơi hưu trí của chúng sanh, vạn vật và các pháp kia vậy.
Như vậy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá) nơi vườn xoài của Jìvaka (Kỳ-bà) Komàrabhacca, cùng với đại chúng Tỷ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị. Lúc bấy giờ Ajàtasattu (A-xà-thế) con bà Vihehi (Vi-đề-hi) vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) nhân lễ Bố Tát vào ngày rằm tháng tư Komudi (cây súng) đang ngồi trên lầu cao trang nghiêm, chung quanh có nhiều đại thần hầu hạ. Lúc bấy giờ Ajàtasattu con bà Videhi, vua xứ Magadha, nhân ngày Bố Tát cảm hứng nói rằng: "Thật khả ái thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật diễm lệ thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật mỹ miều thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật êm dịu thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật điềm lành thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, nhờ sự chiêm bái này tâm chúng ta được tịnh tín?". Khi nghe nói vậy, một đại thần tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi vua nước Magadha: "Tâu Ðại vương, có Pùrana Kassapa (Phú-la Ca-diếp) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đã lâu năm, đã đến tuổi trưởng thượng. Mong Ðại vương đến chiêm bái Pùrana Kassapa này. Chiêm bái Pùrana Kassapa có thể khiến tâm Ðại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói gì.
Như vậy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá) nơi vườn xoài của Jìvaka (Kỳ-bà) Komàrabhacca, cùng với đại chúng Tỷ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi vị. Lúc bấy giờ Ajàtasattu (A-xà-thế) con bà Vihehi (Vi-đề-hi) vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) nhân lễ Bố Tát vào ngày rằm tháng tư Komudi (cây súng) đang ngồi trên lầu cao trang nghiêm, chung quanh có nhiều đại thần hầu hạ. Lúc bấy giờ Ajàtasattu con bà Videhi, vua xứ Magadha, nhân ngày Bố Tát cảm hứng nói rằng: "Thật khả ái thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật diễm lệ thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật mỹ miều thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật êm dịu thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Thật điềm lành thay, này các khanh, đêm rằm sáng trăng! Nay chúng ta nên đến chiêm bái vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, nhờ sự chiêm bái này tâm chúng ta được tịnh tín?". Khi nghe nói vậy, một đại thần tâu với Ajàtasattu, con bà Videhi vua nước Magadha: "Tâu Ðại vương, có Pùrana Kassapa (Phú-la Ca-diếp) là vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, dồi dào kinh nghiệm lâu ngày, xuất gia đã lâu năm, đã đến tuổi trưởng thượng. Mong Ðại vương đến chiêm bái Pùrana Kassapa này. Chiêm bái Pùrana Kassapa có thể khiến tâm Ðại vương được tịnh tín". Khi nghe nói vậy Ajàtasattu, con bà Videhi, vua nước Magadha yên lặng không nói gì.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 11/06/2017
Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh niệm? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; trên các cảm thọ... trên các tâm... quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh niệm. Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh định? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ kheo ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỷ kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh định.
Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh niệm? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; trên các cảm thọ... trên các tâm... quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh niệm. Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh định? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ kheo ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỷ kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh định.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Đồng (Tiền Giang) vào ngày 15/1/2018
Lễ nghi nếu khéo biết ứng dụng cho đúng cách và giọng tụng phải nhịp nhàng với nhau, hòa âm không cao không thấp, nhất là phần oai nghi phải giữ cho trang nghiêm tề chỉnh, có thế thì không những lợi lạc cho bản thân mình mà còn cảm hóa đem lại sự an vui cho người khác. Đó là những điều mà người hành lễ cần phải trang trọng cẩn thận giữ gìn.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ. Các Ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc. Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thọ không phải của các Ông, hãy từ bỏ thọ. Các Ông từ bỏ thọ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, tưởng không phải của các Ông, hãy từ bỏ tưởng. Các Ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, các hành không phải của các Ông, hãy từ bỏ các hành. Các Ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức. Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ. Các Ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông? Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc. Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thọ không phải của các Ông, hãy từ bỏ thọ. Các Ông từ bỏ thọ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, tưởng không phải của các Ông, hãy từ bỏ tưởng. Các Ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, các hành không phải của các Ông, hãy từ bỏ các hành. Các Ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông. Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức. Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Q.Tân Bình) vào ngày 04/06/2017
Phương pháp học Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không phải anh tướng trí tuệ thì không sao vào được. Phật pháp là chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn tuệ học vào công trìnhtu học Phật pháp.
Phương pháp học Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không phải anh tướng trí tuệ thì không sao vào được. Phật pháp là chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn tuệ học vào công trìnhtu học Phật pháp.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Đồng (Tiền Giang) vào ngày 15/04/2018
Lạy Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân, chỉ vì quí kính một đấng lòng từ bi tràn trề, trí giác ngộ viên mãn. Vì quí kính công đức trí tuệ của Phật nên chúng ta lạy Ngài. Lạy Phật để thấy mình còn thấp thỏi ti tiện, bỏ hết những thói ngạo mạn cống cao. Quí kính gương cao cả của Phật để mình noi theo. Phước đức lạy Phật là tại chỗ đó.
Công lý tức là tự nhiên, dầu thưởng phạt hay không thuởng phạt, dầu trị lập hay không trị lập, trong mỗi lúc công lý đều có chứa sẵn, cái tương đối để giác ngộ, dạy dỗ chỉ rõ bày, chậm mau gì ai cũng được học. Cho nên chúng sanh gọi công lý là pháp, hay là giáo lý, để đưa người đến nơi toàn giác, là sự biết sáng suốt hết mê lầm, thì mới chịu giải thoát đứng yên nghỉ mệt, cũng như cây trụ cốt cân, nơi chính giữa thẳng bằng đứng sựng. Bởi công lý trùm khắp tất cả nên gọi là cõi đời, dầu lúc nào cũng là Phật quốc tịnh độ, cho người giác ngộ, an dưỡng nghỉ ngơi vắng lặng. Người hiểu công lý rồi, thì tâm định, được hưởng quả yên vui, cái ta chắc chắn, không còn rối loạn, câu chấp nói làm lo âu nghĩ ngợi. Vì vậy mà kẻ trí gọi công lý là mặt đất lưu ly pha lê vàng bạc, sạch sẽ bằng thẳng quý báu vô cùng, hay cũng gọi đó là chỗ tâm của chư Phật vậy.
Công lý tức là tự nhiên, dầu thưởng phạt hay không thuởng phạt, dầu trị lập hay không trị lập, trong mỗi lúc công lý đều có chứa sẵn, cái tương đối để giác ngộ, dạy dỗ chỉ rõ bày, chậm mau gì ai cũng được học. Cho nên chúng sanh gọi công lý là pháp, hay là giáo lý, để đưa người đến nơi toàn giác, là sự biết sáng suốt hết mê lầm, thì mới chịu giải thoát đứng yên nghỉ mệt, cũng như cây trụ cốt cân, nơi chính giữa thẳng bằng đứng sựng. Bởi công lý trùm khắp tất cả nên gọi là cõi đời, dầu lúc nào cũng là Phật quốc tịnh độ, cho người giác ngộ, an dưỡng nghỉ ngơi vắng lặng. Người hiểu công lý rồi, thì tâm định, được hưởng quả yên vui, cái ta chắc chắn, không còn rối loạn, câu chấp nói làm lo âu nghĩ ngợi. Vì vậy mà kẻ trí gọi công lý là mặt đất lưu ly pha lê vàng bạc, sạch sẽ bằng thẳng quý báu vô cùng, hay cũng gọi đó là chỗ tâm của chư Phật vậy.
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì". Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: "Tỷ-kheo tên Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì". Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng như sau: -- Này Hiền giả Arittha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì"? -- Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu... không có chướng ngại gì.
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì". Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau: "Tỷ-kheo tên Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì". Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Arittha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng như sau: -- Này Hiền giả Arittha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu... thật sự không có chướng ngại gì"? -- Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu... không có chướng ngại gì.
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) về Kinh Đại Niệm Xứ
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) về Kinh Đại Niệm Xứ
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 08/11/2015
Bài giảng tại TX.Trung Tâm (Q.6) vào ngày 27/06/Canh Dần
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang vào ngày 31/03/2018
Con người cũng vì sự mặc lành tốt, miếng ăn ngon, chỗ ở đẹp, thuốc ngọt thơm mà phải chịu chết với nhau, kéo nhau vào hố độc thụt lùi vào hang tối, dầu biết đó là chỗ chết, chỗ tiêu diệt, khổ điên cuồng nhưng bởi sự lôi cuốn rủ ren, sự đua chen, cám dỗ, bởi chớn nặng té ngã của số đông người, nên kẻ yếu sức khó bề đứng gượng, cũng phải chịu sự xô nhào chúi nhủi như ai, thật đáng thương thay! Thế thì cái mặc áo vá bô dày, lượm xin vải bỏ, đâu lại chầm khướu, màu dơ nám xấu, cùng với sự ăn xin rau trái trộn lộn, chỗ ở cóc lều, hang bọng, thuốc uống cỏ cây, của người khất sĩ giác ngộ kia, chẳng là sự duy trì phong hóa, cải sửa cuộc đời, thức tỉnh cho người, chỉ đường nẻo sống, dắt đến chỗ yên vui, chống ngăn cơn sập đổ, cứu vớt biết bao người, ích lợi biết bao nhiêu, và có gì khó hiểu.
Bài giảng tại chùa Giác Lâm (Tân Bình) vào ngày 23/8/2015
“Dầu Ta chỉ cho các ngươi phương pháp giải thoát, các ngươi phải biết sự giải thoát ấy hoàn toàn phụ thuộc vào các ngươi”. “Khi vị Giảng sư giảng Chánh pháp cho đệ tử, dạy cách nghe chân chánh, dạy tránh ác làm lành, và nhớ thuộc lời dạy, người đệ tử phần mình phải nhớ lời dạy đừng quên, gắng học thuộc lòng và thực hiện lời dạy ấy. Nhưng nếu người đệ tử không nhớ được những lời dạy, thì dầu có nghe được Chánh pháp và có được lợi ích đi nữa, nhưng vì không hiểu một chút gì về Chánh pháp thì thật chẳng khác gì không nghe Chánh pháp.”
“Dầu Ta chỉ cho các ngươi phương pháp giải thoát, các ngươi phải biết sự giải thoát ấy hoàn toàn phụ thuộc vào các ngươi”. “Khi vị Giảng sư giảng Chánh pháp cho đệ tử, dạy cách nghe chân chánh, dạy tránh ác làm lành, và nhớ thuộc lời dạy, người đệ tử phần mình phải nhớ lời dạy đừng quên, gắng học thuộc lòng và thực hiện lời dạy ấy. Nhưng nếu người đệ tử không nhớ được những lời dạy, thì dầu có nghe được Chánh pháp và có được lợi ích đi nữa, nhưng vì không hiểu một chút gì về Chánh pháp thì thật chẳng khác gì không nghe Chánh pháp.”
Bạch Thế Tôn, con là ai mà có thể có sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh? Bạch Thế Tôn, con còn rất xa với sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt, tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh. Bạch Thế Tôn, xưa kia, đối với các vị Du sĩ không phải thù thắng, chúng con xem là thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con cúng dường các món ăn thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con mời họ ở trong những trú xứ thù thắng. Bạch Thế Tôn, còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng, chúng con xem là không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng, chúng con cúng dường các món ăn không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng, chúng con mời các vị ấy ở trong các trú xứ không thù thắng. Nhưng nay, bạch Thế Tôn, đối với các Du sĩ không thù thắng, chúng con sẽ biết là không thù thắng; vì họ không thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các món ăn không thù thắng,; vì họ không thù thắng chúng con sẽ mời họ ở trong các trú xứ không thù thắng. Còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng, chúng con sẽ biết các vị ấy là thù thắng; vì các vị ấy thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các món ăn thù thắng; vì các vị ấy thù thắng, chúng con sẽ mời các vị ấy ở trong các trú xứ thù thắng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thật sự đã gợi ở nơi con lòng ái kính Sa-môn đối với các vị Sa-môn, lòng tịnh tín Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tôn kính Sa-môn đối với các Sa-môn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử; từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.  
Bạch Thế Tôn, con là ai mà có thể có sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh? Bạch Thế Tôn, con còn rất xa với sự đoạn tận toàn diện, toàn bộ và toàn mặt, tất cả tục sự trong giới luật bậc Thánh. Bạch Thế Tôn, xưa kia, đối với các vị Du sĩ không phải thù thắng, chúng con xem là thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con cúng dường các món ăn thù thắng; dầu họ không thù thắng, chúng con mời họ ở trong những trú xứ thù thắng. Bạch Thế Tôn, còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng, chúng con xem là không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng, chúng con cúng dường các món ăn không thù thắng; dầu các vị ấy thù thắng, chúng con mời các vị ấy ở trong các trú xứ không thù thắng. Nhưng nay, bạch Thế Tôn, đối với các Du sĩ không thù thắng, chúng con sẽ biết là không thù thắng; vì họ không thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các món ăn không thù thắng,; vì họ không thù thắng chúng con sẽ mời họ ở trong các trú xứ không thù thắng. Còn đối với các Tỷ-kheo thù thắng, chúng con sẽ biết các vị ấy là thù thắng; vì các vị ấy thù thắng, chúng con sẽ cúng dường các món ăn thù thắng; vì các vị ấy thù thắng, chúng con sẽ mời các vị ấy ở trong các trú xứ thù thắng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thật sự đã gợi ở nơi con lòng ái kính Sa-môn đối với các vị Sa-môn, lòng tịnh tín Sa-môn đối với các Sa-môn, lòng tôn kính Sa-môn đối với các Sa-môn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử; từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.  
Hoạt động tôn giáo tại Tự viện 1) Tăng Ni là thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam có quyền và nghĩa vụ trong việc sinh hoạt, tu học và hoạt động tôn giáo tại các Tự viện theo quy định của Giáo hội và pháp luật Nhà nước. 2) Tăng Ni được quyền thụ các giới, theo học các Trường Phật học, tham dự các công tác Phật sự của các cấp Giáo hội tùy theo năng lực, trình độ. 3) Tăng Ni từ Tự viện của tỉnh này chuyển đến sinh hoạt và hoạt động tôn giáo tại các Tự viện của tỉnh khác phải thực hiện theo quy định của điều 80 Nội quy này và pháp luật Nhà nước.
Hoạt động tôn giáo tại Tự viện 1) Tăng Ni là thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam có quyền và nghĩa vụ trong việc sinh hoạt, tu học và hoạt động tôn giáo tại các Tự viện theo quy định của Giáo hội và pháp luật Nhà nước. 2) Tăng Ni được quyền thụ các giới, theo học các Trường Phật học, tham dự các công tác Phật sự của các cấp Giáo hội tùy theo năng lực, trình độ. 3) Tăng Ni từ Tự viện của tỉnh này chuyển đến sinh hoạt và hoạt động tôn giáo tại các Tự viện của tỉnh khác phải thực hiện theo quy định của điều 80 Nội quy này và pháp luật Nhà nước.
Bài giảng tại chùa Bửu Lâm (Tiền Giang) vào ngày 12/07/2017
Con đi khắp chân trời góc bể/ Ân tình nào sánh xuể mẹ yêu/ Nghĩa dày độ lượng bao nhiêu/ Có trong lòng mẹ sớm chiều bao dung.
Chánh niệm là phương pháp tu tập căn bản, cốt lõi của Ðạo Phật, là điểm khởi hành hết sức thiết yếu trên đường tu tập. Chính nó là nền tảng đem lại an lạc hạnh phúc cho minh và cho người, bởi vì sống mà không biết mình sống thì chẳng khác gì như chết; đó là tình trạng vô tâm mà người xưa bảo là "sống say chết mộng". Nhìn lại đời sống hàng ngày, chúng ta thấy mình sống trong quên lãng, thất niệm quá nhiều, chính chúng ta tự đánh mất mình trong những thời gian ấy mà không hay biết. Sở dĩ tình trạng vong thân mà hiện nay là một lối sống phổ biến, một phần do chúng ta thiếu tu tỉnh, phần khác do áp lực của xã hội. Chính lối sống chụp giựt vội vàng, đấu tranh kiên cố, mạnh được yếu thua làm cho con người vọng ngoại, điên đảo, tán động, thác loạn và phát sinh nhiều tâm bệnh. Chính lối sống xô bồ thiếu đạo đức, vô ý thức và thiếu trách nhiệm là nguyên nhân của khổ đau loạn lạc chiến tranh. Con người bị hoàn cảnh chi phối, bị xã hội khuôn dúc, bị tham dục sai sử, bị sân si xâm chiếm, bị phân tán, bị rối loạn, nên không thể trở về con người nguyên vẹn của chính mình.
Công lý cũng tức là chơn lý, hay lẽ chánh đẳng chánh giác trung đạo dung hòa của võ trụ. Công lý nghĩa là lẽ không thêm, không bớt, bằng nhau, đạo lý rất công bằng không chênh lệch thiên tư về mặt nào. Thể của công lý là sự, không lượng không biên, không cố chấp vô cực, tướng của công lý là hình thể của vạn vật các căn, dụng của công lý là luật pháp giáo lý tương đối biến hóa, lý của công lý là tự nhiên vắng lặng bằng thẳng mát mẻ.
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm vào ngày 04/10/2015
Phật hiện thân thuyết pháp đều vì tất cả các loài hữu tâm ở thế gian mà khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, cho nên đều do giải khởi hạnh, do hạnh được chứng. Giải mà chẳng có hạnh thì thành hiểu suông, chứng mà không có hạnh thì không do đâu thấy chứng. Học, lấy minh tâm làm thiết yếu/ Tu, lấy niệm Phật làm ổn đáng
Về lĩnh vực tinh thần, Phật có trí tuệ thuần khiết, có đức từ bi rộng lớn, có sức tự tại vô ngại; nhưng về phương diện nhục thể, qua hiện tượng Đản sanh làm người, Ngài cũng giống như chúng ta. Có điều, ý chí Ngài siêu phàm nên đã đạt đến quả vị tối hậu chấm dứt tất cả khổ đau. Điều đó cũng bao hàm ý nghĩa rằng, toàn thể nhân loại đều có khả năng chấm dứt khổ đau thành tựu Phật quả.
Phật cười vui nhẫn nại/ Tự tại kiếp trang đài/ Tâm kinh con chép lại/ Giật mình thấy Như lai. Sắc không nay tan lối/ Xa bay chuỗi não phiền/ Lòng trinh nguyên thanh thoát/ Vào đời chữ Tuỳ duyên. Hôm nay mừng Phật Đản/ Chân tâm vụt hiển bày/ Đâu đây chim non hót/ Vọng từ cõi thường nguyên!!!!
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm vào ngày 01/11/2015
Phật độ là Phật giúp cho chúng ta phương tiện tức là giáo lý Tứ Diệu Đế, kinh điển, nhưng chính chúng ta phải tự mình nghiên cứu, tu tập, thực hành và sống đúng với chánh pháp thì mới có giải thoát, an vui và tự tại. Ngược lại nếu chúng ta cứ mãi mê ngồi thiền lim dim, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, van vái, cầu nguyện mà tự mình không chịu lo tu sửa, tánh tham tật đố không chừa, tâm còn giận còn hờn, lòng còn chạy theo si mê ái dục thì đây chỉ là tu hành theo hình thức, không có một ý nghĩa hay giá trị nào hết.
Bài giảng tại Chùa Long Thành (Vĩnh Long) vào ngày 16/05/2018 (nhằm 02/04/Mậu Tuất)
Miếng ăn là vật chất trong tứ đại, là bà mẹ sanh ra tất cả, và rồi ăn hại trở lại tất cả, cũng như một bà mẹ khi mới sanh ra một đứa con là thiện tốt, nhưng lúc trở về già thì bắt đứa con nuôi lại, do đó đứa con sẽ trở nên tội ác, gian tà, để lo cho bà mẹ trả lại, mà thân tâm trí của nó phải chết khổ điên cuồng. Vì vậy nên gọi rằng bà mẹ thiện lúc đầu, ác lúc về sau. Rốt lại cả hai đều chết không, tất cả chẳng có nên tuồng trò, sự lợi ích gì cho ai được nhờ. Cũng như cỏ cây sanh nơi đất, rồi chết trở về thành đất, tiêu hình, vô dụng. Cũng như miếng ăn nuôi sống mà người lại đứng ngồi nằm một chỗ để cung phụng lại cho miếng ăn mà đền ơn, giống như là khi chết rồi thì xác thân rã làm phân nước, để sanh ra miếng ăn trả lại. Cũng như quỉ mẫu sát tử là quỉ mẹ sanh con, sanh ra rồi được bao nhiêu là ăn hết trở lại, nên không bao giờ có được nối hậu về sau, ích lợi cho ai chi cả. 
Bài giảng tại Chùa Giác Lâm (Q.Tân Bình) vào ngày 12/02/2017 Trong buổi pháp thoại SC. Tâm Tâm nêu các điểm chính về chức năng của tâm như nguyên nhân sanh ra các tâm, đặc điểm của tâm, đối thoại trong tâm. Thực vậy, các pháp khởi sanh lên đều có nhân của nó, cùng với những cảm xúc, tình cảm, quan niệm.... khi tâm khởi sanh , muốn thay đổi ta đều căn cứ vào nhân sanh tâm này mà thay đổi. Trong Phẩm Song Yếu - Kinh Pháp Cú có trình bày “ Ý dẫu đầu các pháp, ý làm chủ ý tạo, với ý ô nhiễm thì khổ đau bước theo sau, nếu với ý thanh tịnh, an lạc sẽ hình thành sau đó.” Do đó, ma lực trong tâm cần phải đẩy lùi và hóa giải. Hiểu được nguyên nhân sâu sắc trong vô lượng kiếp và chiêm nghiệm trong luân hồi nhân quả để can đảm đối thoại với tâm. Tập quan sát, suy xét bằng con mắt trí tuệ khai mở để thấy rõ mà vươn lên vượt ra ngoài sự đau khổ này. Đó là những nội dung chủ yếu mà SC. Tâm Tâm muốn trao gửi trong bài pháp thoại này.
Thiền là pháp tu của những người sống bằng giới định. Còn Tịnh độ là pháp tu của những người sống bằng tín tâm. Cho nên từ ngữ vãng sanh của Tịnh độ có ý nghĩa tương tự như từ ngữ chứng ngộ của Thiền tông, không hai không khác. (Nam-mô A Di Đà Phật chính là lòng tin để thành tựu tình cảm tôn giáo, vừa là năng lực phát triển giới định tuệ). Từ lâu,Thiền tông và Tịnh độ tông dường như kết hợp với nhau rất nhuần nhuyễn trong hành trì, hình thức, nghi lễ… thể hiện Thiền Tịnh song tu suốt trên 1.000 năm nay tại Việt Nam, nghĩa là từ trước thời Lý Trần. Vả lại, điểm đặc sắc của người Việt Nam là không phân biệt môn tường, bè phái, cho nên khi một nhà sư thị tịch đúng chánh pháp, ta có thể nói: Ngài đã chứng ngộ (đắc đạo). Hoặc nói: Ngài đã vãng sanh Cực Lạc – đều thích hợp cả.
Bài giảng tại Pháp viện Minh Đăng Quang vào ngày 04/10/2017 (nhằm 15/08/Đinh Dậu)
Trung đạo chánh đẳng, chánh giác, cũng như sự sống của trái tim điều hòa, không mau chậm, như hơi thở, có ra vào, như chiếc xe có máy chạy đằm đằm, là sự không thái quá bất cập của tương đối. Trung đạo, không bỏ bên này, mà không lấy bên kia, cũng không lấy hết, cũng không bỏ hết, trung đạo là chỉ giữ thường nơi mực giữa, như chiếc xe hơi chạy, có qua một chút, có lại một chút, chỉ giữ mực giữa mà đi, thì mới được bền dài, thẳng tới khỏi sụp lề. Chánh đẳng chánh giác cũng là tự nhiên chơn như, không vọng động rối loạn, bởi sự chánh đẳng là từ bi, sống chung, hòa hiệp, và chánh giác là trí huệ, dứt bỏ điều sái quấy, nên mới được ngủ yên nghỉ khỏe, không điều xao xuyến bận lòng.
Vi diệu pháp (Abhidhamma) là môn học nghiên cứu về con người và sự tiến hóa hay thụt lùi của nó, cũng áp dụng luôn cho các sinh vật khác (chúng sanh khác) trong và ngoài trái đất. Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao siêu, vi diệu, thù thắng, vượt trên tất cả, vô thượng (không có gì cao hơn). Vi Diệu Pháp là đề cập đến giáo lý tinh hoa của Ðức Phật, giáo lý này là một trong Tam Tạng Kinh Điển của Phật giáo nguyên thủy, hai tạng còn lại là gồm Kinh tạng, Luật tạng. Trong Thế giới hay vũ trụ dù rộng lớn bao nhiêu cũng không ngoài 4 thứ: Sắc (vật chất), Tâm (Tâm Vương), Tâm Sở (Các trạng thái thuộc tâm như Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành uẩn) và Phi Danh Sắc (Niết Bàn). Vi Diệu Pháp chia và giảng chi tiết về 4 đối tượng này một cách sâu sắc với phương châm "Không có cái tôi". Vi Diệu Pháp là mộn học không đề cập đến "cái ngã". Như các định luật vật lý, hóa học, sinh học...xảy ra độc lập với "cái ngã" thì Vi Diệu Pháp nghiên cứu về các khía cạnh vật chất (Sắc Uẩn) giống như vậy. Còn về Tâm và Tâm Sở, Vi Diệu Pháp có vẻ giống Tâm lý học nhưng hoàn toàn khác với tâm lý học ở nhiều khía cạnh. Tâm lý học phục vụ cho "sự mưu cầu" lợi ích thì Vi Diêu Pháp phục vụ cho việc "mưu cầu lợi ích" và "vượt lên mưu cầu lợi ích". Trong Vi Diệu Pháp, con người không đề cập như một trung tâm của thế giới mà đặt trong bối cảnh đồng đẳng với mọi sự vật, hiện tượng. Đó chính là cái khách quan nhất để khám phá chân lý cùng tột (Paramattha sacca) hơn là khám phá thuần thiết vào chân lý theo qui ước (Sammuttisacca) như con người, con chó, con ma, và các hàng phi nhân khác như các loài ngoài trái đất (như chư Thiên, người ngoài hành tinh, phi nhân). Nghĩa là trong Vi Diệu Pháp không có chúng sanh, chỉ có pháp. Pháp (dhamma) là tất cả những sự vật hiện tượng, sự vật hiện tượng gì cũng gọi là Pháp. Pháp được tổng quát hóa thành Sắc, Tâm, Tâm Sở, Niết Bàn (vượt qua Sắc, Tâm, Tâm Sở).
...Các hoạt động Phật sự tại Tự viện, trụ trì phải tuân thủ sự hướng dẫn của GHPGVN cấp tỉnh, cấp huyện và Pháp luật Nhà nước. Các cơ sở chưa có trụ tri, GHPGVN cấp huyện thực hiện việc đăng ký bổ nhiệm trụ trì với GHPGVN cấp tỉnh và Cơ quan Nhà nước cùng cấp. Những cơ sở đã có trụ trì nhưng chưa có quyết định bổ nhiệm trụ trì, Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh ra quyết định hợp thức hóa trụ trì cho cơ sở đó.
Ở đây, này Sariputta, Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng: "Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ". Này Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (Long An) vào ngày 17/09/2014
Bài giảng tại PV. Minh Đăng Quang vào ngày 03/11/2017 (nhằm 15/09/Đinh Dậu)
Học chơn lý để biết rõ chúng sanh, vạn vật và các pháp, đặng đem lại một cái sống như thân hình võ trụ, nói thay cùng tạo hóa dạy khắp muôn loài, một địa vị toàn giác toàn năng, tối cao hơn trời đất, cứu độ cả chúng sanh, khắp thế giới chúng sanh thảy tự đem mình tôn kính.
Bài giảng tại Chùa Nghĩa Minh (Nha Trang) vào ngày 17/04/2013
"Dầu đọc tụng nhiều kinh, tâm buông lung cẩu thả, như kẻ chăn bò thuê, khó hưởng Sa môn quả.  Dầu đọc tụng ít kinh nhưng hành trì giáo pháp, như thật tâm giải thoát, từ bỏ tham sân si, hai đời không chấp trì, thọ hưởng Sa môn quả " (Pháp cú 19-20).
Trí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không v.v… Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh, nên không có chủ thể thì làm gì thật có được; đủ duyên vạn vật sanh thì làm sao nói thật không? Như kinh nói “chúng sanh không phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh… thế giới không phải thế giới, ấy gọi là thế giới…”. “Không phải chúng sanh”, vì duyên hợp không có chủ thể. “Gọi là chúng sanh”, vì giả tướng giả danh hiện tiền làm sao phủ nhận được.
Trí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không v.v… Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh, nên không có chủ thể thì làm gì thật có được; đủ duyên vạn vật sanh thì làm sao nói thật không? Như kinh nói “chúng sanh không phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh… thế giới không phải thế giới, ấy gọi là thế giới…”. “Không phải chúng sanh”, vì duyên hợp không có chủ thể. “Gọi là chúng sanh”, vì giả tướng giả danh hiện tiền làm sao phủ nhận được.
Nhằm trợ duyên cho chư Tăng, Ni hiểu biết thêm về phương cách sinh hoạt tại ngôi Đạo tràng, Tịnh xá, Tự viện, Tịnh thất, Niệm Phật đường, … được thuận lợi về mọi mặt, nên Hoà thượng đã hướng dẫn về “Nội quy Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN”. Và Nội quy gồm 15 chương và 85 điều, (Chương I: Danh xưng - Văn phòng - Chức năng - Nhiệm vụ, gồm có 5 điều từ 1 – 5; Chương II: Tổ chức - Nhân sự, gồm có 2 điều là 6 và 7; Chương III: Nhiệm vụ - Quyền hạn, gồm có 4 điều từ 8 – 11; Chương IV: Thành phần Tăng, Ni trong Giáo hội, gồm có 4 điều từ 12 – 15; Chương V: Quản lý tự viện, gồm có 10 điều từ 16 – 25; Chương VI: Tài sản tự viện, gồm có 6 điều từ 26 – 31; Chương VII: Quyền khiếu nại của trụ trì tự viện và Tăng Ni, gồm có 4 điều từ 32 – 35; Chương VIII: Xuất gia - Cầu thầy y chỉ - Hoàn tục, gồm có 17 điều từ 36 – 52; Chương X: Trụ trì - Bổ nhiệm Trụ trì, gồm có 14 điều từ 53 – 66; Chương XII: Sắc phục Tăng Ni, gồm có 4 điều từ 67 – 70; Chương XIII: Khuyến giáo - Kỷ luật - Tuyên dương Công đức, gồm có 5 điều từ 71 – 75; Chương XIV: Hoạt động và sinh hoạt tôn giáo của Tăng Ni, gồm có 8 điều từ 76 – 83; Chương XV: Hội họp - Ban hành - Sửa đổi, gồm có 2 điều là 84 và 85).
Bài giảng tại Chùa Phật Quang (Trà Vinh) vào ngày 28/10/2013
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang vào ngày 17/12/2017 (nhằm 30/10/Đinh Dậu)
"Nếu lá cây Trú độ (1) ở Tam Thập Tam Thiên úa vàng (2) , lúc đó thiên chúng ở Tam thập thiên vui mừng hớn hở, cho rằng lá cây Trú độ chẳng bao lâu nữa sẽ rụng. "Rồi thì lá cây ở Tam Thập Tam Thiên đã rụng. Lúc đó Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên vui mừng hớn hở cho rằng lá cây Trú độ chẳng bao lâu nữa sẽ mọc lại. "Rồi thì lá cây Trú độ ở Tam Thập Tam Thiên đã mọc lại, lúc đó Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên vui mừng hớn hở cho rằng cây Trú độ chẳng bao lâu nữa sẽ kết ra mạng lưới (3) . "Rồi thì cây Trú độ ở Tam Thập Tam Thiên đã kết mạng lưới. Lúc đó Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên vui mừng hớn hở cho rằng cây Trú độ chẳng bao lâu nữa sẽ nở nụ giống như mỏ chim (4). "Rồi thì cây Trú độ ở Tam Thập Tam Thiên đã nở nụ giống như mỏ chim. "Lúc đó Chư Thiên ở Tam Thập Tam Thiên cho rằng cây Trú độ chẳng bao lâu nữa sẽ nở hoa giống như cái bát (5).
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 29/08/2010
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (Long An) vào ngày 18/08/2013
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang Q.2
Khất sĩ đi xin ăn mà chẳng than van, không có gì hết mà chẳng than nghèo, đầu trần, chân không, đội trời đạp đất sương màn cỏ chiếu, mà chẳng bao giờ chán nản. Khất sĩ khuyên lơn người giàu, an ủi người nghèo, làm gương không không, tránh khổ cho người giác ngộ. Khất sĩ cảm hóa kẻ ác, dạy dỗ người thiện, để dấu hoa sen không ô nhiễm vào nơi trí óc tâm người, vạch hàng chữ đạo nơi cửa ngỏ đường đi, khoe sự tốt đẹp của giới hạnh, nhắc nhở sự yên úy đến cho người.
Tách mình khỏi thế giới hỗn loạn để tĩnh tâm lại Trước hết, hãy để bản thân thoát khỏi hoàn cảnh hỗn loạn và tĩnh tâm lại. Bởi suy cho cùng khi đã quá lo lắng thì chắc chắn sẽ than phiền, chán ngán trước những khó khăn phiền toái kể trên, bạn cũng chẳng được gì, thậm chí có khi còn bị rối thêm. Hãy biết cố gắng dậy sớm hơn mọi người trong gia đình, tìm một nơi yên tĩnh để ngồi thiền. Đây là một việc làm rất đỗi bình thường, khi con người biết cảnh tỉnh trong chính giây phút hiện tại, chúng ta sẽchấp nhận và an trú những gì mình đang có ở hiện tại.
Tu tập cái gì ? Tu tập có nghĩa là khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức. Tại sao lại phải khắc phục, biến cải và phát huy tâm thức ? Vì chính tâm thức là nguồn gốc của mọi xúc cảm bấn loạn, của mọi tư duy lệch lạc và méo mó, của mọi thứ khổ đau, nhưng đồng thời tâm thức cũng là cội nguồn của phúc hạnh, của mọi đức tính tích cực và cao cả nhất. Tu tập còn có nghĩa là làm cho tâm thức lắng xuống, quan sát, phân tích, tìm hiểu sự vận hành của tâm thức để ý thức được bản chất thật sự của nó. Cái bản chất ấy thường xuyên bị che lấp bởi vô minh, tức sự hiểu biết sai lạc về thực thể của vạn vật. Tâm thức liên tục bị khống chế bởi lầm lẫn, bởi ảo giác, bởi bản năng thú tính và những xúc cảm đủ loại, giống như nó đang bị một chủ nhân ông điều khiển, và vị chủ nhân ông ấy chẳng qua chính là "cái ngã" hay "cái tôi" mà người ta thường lầm tưởng là một thứ gì trường tồn và bất biến.
Bài giảng tại Pháp viện Minh Đăng Quang (Q.2) vào ngày 23/04/2017
Muốn học, không phải ở một chỗ, mà cần phải bước lên đi tới, phải đi theo thời duyên cảnh ngộ, của nước gió không ngừng chớ đừng cố cượng. Vì chính sự ở một chỗ giữ một bài, một lớp, là khổ não, vô minh, si mê thất học. Càng đứng ngồi nằm một chỗ, càng thấy nóng nảy sân hờn, và lại bụi lắp xấu dơ, tham lam đen nặng. Vậy muốn được học, nếu là kẻ thật học, thì phải ra người Khất Sĩ, khó hèn, để hạ lòng tự cao dốt nát, đặng rèn nuôi chí nhẫn, và thong thả học hành, ngao du thiên hạ. Vừa là tự mình đi tới, và dắt lần những kẻ khác cùng theo, cho đúng theo lẽ trước sau thời gian khách tạm vô thường vô ngã.
Không gian võ trụ bao la, vô số địa cầu thảy là tứ đại, thì thảy in như nhau không khác, nào đợi phải đi đâu! Có thế giới đang có Phật nhiều, có thế giới đang có Trời nhiều, có thế giới đang có người nhiều, có thế giới đang có thú nhiều, có thế giới đang có cây nhiều, có thế giới đang có cỏ nhiều, có thế giới đang có đất nước lửa gió mới tượng. Cũng như nơi loài người có xứ đang có ông già nhiều, có xứ đang có người lớn nhiều, có xứ đang có trẻ em nhiều, có xứ đang có phụ nữ nhiều, có xứ đang có nam nhân nhiều, có xứ người tu đang có nhiều, có xứ kẻ thiện đang có nhiều, có xứ kẻ ác đang có nhiều, có xứ đang vui cười, có xứ đang khóc lóc v.v… nói chẳng hay cùng.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 08/11/2012
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang (Q.2) vào ngày 16/07/2017 (23/06/Đinh Dậu)
Đức Phật Dược Sư là một vị giác ngộ có lòng từ bi vĩ đại đối với tất cả chúng sinh. Ngài bảo vệ chúng sinh khỏi bệnh tật cả thể chất và tinh thần, những nguy hiểm, những chướng ngại trong cuộc sống, và giúp họ loại bỏ ba chất độc đó là sự dính mắc, hận thù và vô minh, đó là nguồn gốc của mọi đau khổ trên cõi đời này.
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 06/07/2014
Thế nào là Ngu Si? Có năm loại ngu si thế gian mà người Phật Tử cần phải biết để mà tránh, năm loại đó là gì? - Thứ nhất: Không biết những điều lẽ ra cần phải biết, đó là ngu si trí tuệ. - Thứ nhì: Biết mà không nói khi có người cần đến, đó là ngu si của sự ích kỷ. - Thứ ba: Biết nhưng nói gian dối không đúng với điều mình biết, đó là ngu si tạo nghiệp. - Thứ tư: Không biết mà cố nói để chứng tỏ rằng mình biết, đó là ngu si bản ngã của vọng tưởng. - Thứ năm: Biết mà nói không đúng lúc, đúng chỗ. Đó là ngu si về nhân duyên! Tất cả năm loại ngu si ấy đều đưa ta tới vô minh, tự mãn, kiêu ngạo, mù quáng! Là những rào cản tầng tầng lớp lớp trên con đường giác ngộ Chánh Pháp Thích Ca.
1.Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý ô nhiễm, Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo. 2. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hay hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình.
Công lý sanh ra giáo lý, giáo lý có hai, để đem lại công lý là một, nên gọi rằng: giáo lý là pháp thế gian tương đối, để đem lại sự giác ngộ là công lý pháp Phật tuyệt đối, tạo cái giác là Phật, cho chúng sanh, vậy nên gọi cõi đời là cõi Phật. Phật đã thành, Phật đang thành, và Phật sẽ thành, ai ai rồi cũng là giác, biết Phật cả thảy, cũng như mặt đất là cõi Phật đã lập, cõi Phật đang lập, và cõi Phật sẽ lập, như vậy tức là cõi Phật tất cả rồi đó. Chỉ có điều là chúng sanh đã giác ngộ nhận ra, hay đang giác ngộ nhận ra, hoặc chưa giác ngộ nhận ra đó thôi. Như kìa là thế giới của Phật A Di Đà phương Tây, hay là cõi của Phật Dược Sư phương Đông, thật trang nghiêm bình đẳng mát mẻ thanh tịnh vô cùng, cõi của chúng ta mai kia cũng được như vậy, là do mọi sự cố gắng của công tâm, do nhờ giáo lý tiến hóa của chúng ta thì mới chắc được sự sáng lòa rực rỡ, đâu còn lo gì sự lổng chổng không công, mệt nhọc mãi hoài thót ruột.
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 08/06/2014
Nghiệp là động lực dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, nên rất hệ trọng đối với sự tu hành. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp được dịch từ chữ Phạn Karma: nghĩa là động tác dấy khởi từ ý, miệng và thân. Động tác ấy được lập đi lập lại nhiều lần thành thói quen, và khi đã thành thói quen thì nó có sức mạnh chi phối dắt dẫn con người theo nó.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Trung Tăng vào năm 2017
Công lý cũng tức là chơn lý, hay lẽ chánh đẳng chánh giác trung đạo dung hòa của võ trụ. Công lý nghĩa là lẽ không thêm, không bớt, bằng nhau, đạo lý rất công bằng không chênh lệch thiên tư về mặt nào. Thể của công lý là sự, không lượng không biên, không cố chấp vô cực, tướng của công lý là hình thể của vạn vật các căn, dụng của công lý là luật pháp giáo lý tương đối biến hóa, lý của công lý là tự nhiên vắng lặng bằng thẳng mát mẻ.
Theo Đức Phật thiên giới (thiên đường) và địa ngục không phải là những nơi chốn mà con người được ký thác sau khi chết, mà là những thái độ của tâm thức điều ta có thể kinh nghiệm ngay bây giờ. Nói một cách đơn giản, nếu có hạnh phúc thì bạn đang ở cõi thiên đường, nhưng nếu đau khổ thì bạn đang ở trong địa ngục.
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) PL.2563 - DL.2019
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long)
Bài giảng tại tịnh xá Mỹ Đức (Tiền Giang) vào ngày 10/04/2014
Giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp...
Than ôi! Đồ vật giết người mà nào phải nó ác. Ác là tại người, người giết người, chớ ai vào đó mà giết người, người chết là tại vật chất của cải chính ta tạo ra có nó để nó giết ta. Vậy kẻ muốn sống yên vui, há đi nắm lấy nó tự đâm chém chôn mình sao, mà tham tiếc.
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 02/03/2014
Lục đạo là 6 nơi ở của chúng sinh trong vòng luân hồi: cõi trời, cõi người, cõi Atula, cõi súc sinh, cõi quỷ đói, cõi địa ngục. Phật giáo cho rằng, tất cả chúng sinh chưa được giải thoát, dưới sự thúc đẩy của nghiệp lực đều phải lưu chuyển sinh tử trong Lục đạo. Chúng sinh luân hồi đều ở trong biển khổ vô biên.
Mục đích cứu cánh của đạo Phật là giải thoát. Đức Phật Thích Ca đã từng nói: “Nước trong bốn biển đều có một vị, đó là vị mặn. Tất cả các pháp môn của ta cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát”. Vì vậy trong hầu hết các kinh điển của Đức Phật thuyết pháp đều nói đến con đường giác ngộ và giải thoát. Mà con đường giải thoát của đạo Phật căn bản là ở tâm, phải từ tâm mà ra tức là phải nỗ lực cá nhân. Dù Phật pháp có đến 84 nghìn pháp môn thì pháp môn nào cũng phải tự mình tu tập để đi đến giải thoát. Rõ ràng muốn từ bến bờ mê muội bên này sông sang bên kia bờ giải thoát phải tự mình lên thuyền, tức là phải có công phu tự thân tâm của chính người tu hành, phải có cả một quá trình tu tập. Pháp môn Tịnh Độ cũng thế, cũng phải là một quá trình tu tập mang tính tự lực là chính.
Tất cả gặp nhau, Trong ánh sáng diệu kỳ Tất cả gặp nhau, Trong giáo lý từ bi Giúp con người khai nguồn chân lý Giúp con người phá tan nghiệp thức vô minh Giúp con người soi sáng tâm linh. Tự giác quay về chơn tánh Pháp thân Tâm là Phật, Phật là Tâm mầu nhiệm Đạo quả Bồ đề Vô thượng thậm thâm. “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn Vô lượng sinh tử… Ư kim tận hỷ!”
Bài giảng tại chùa Linh Sơn (Gò Công, Tiền Giang) vào ngày 11/01/2018
Chữ Di Lặc là phiên âm tiếng Phạn, Tàu dịch là Từ Thị (Thị là họ, Từ là từ bi). Có thuyết nói rằng khi bà mẹ của Ngài mang thai Ngài, khởi lòng thương không nỡ giết hại chúng sanh và không ăn thịt cá được cho nên nói là “Từ”. Vì Ngài sanh nơi bà mẹ đó cho nên gọi là Từ Thị. Nhưng có thuyết lại nói khác hơn. Vì thuở xưa Ngài tu về từ bi tam-muội cho nên sau này có tên là Từ Thị. Nhưng tên Ngài là A-dật-đa cũng là tiếng Phạn dịch âm. Dịch theo chữ Tàu là Vô Nan Thắng (Vô là không, Nan là khó) tức là không có thể nào hơn được. Đối với Ngài về trí tuệ và hạnh tu ít người hơn được, nên có tên Vô Nan Thắng.
Thân gìn giữ giới luật khất sĩ, biết thu thúc lục căn, dứt sạch nghiệp trần – thân trong sạch, xứ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Miệng được nuôi dưỡng bởi giáo lý pháp bảo, dùng pháp bảo tiếp dẫn độ sanh – Miệng trong sạch, Pháp Phật được hiển bày. Giữ Ý yên lặng, định tĩnh sáng suốt, không sở chấp, không phiền não nhiễm ô – Ý trong sạch, do đó thân tâm lưu xuất những điều tốt đẹp an vui mãi mãi. Và khi tam nghiệp: Thân, Miệng, Ý trong sạch, tức là hình thành hạt giống Tâm chơn như, không vọng động.
Bài giảng tại Chùa Minh Hiệp (Đồng Nai) vào ngày 09/12/2018
Bài giảng tại Hạ trường Hệ phái Khất Sĩ - Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 17/06/2019
Bài giảng tại chùa Linh Phong (Tân Hiệp, Tiền Giang) vào ngày 07/05/Nhâm Thìn
Đạo Phật xuất hiện ở đời giáo hoá chúng sinh, cảm hoá nhân loại tức ác hành thiện, phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát hạnh, hướng về nẻo giác. Một trong những đạo lý không thể thiếu ấy, đạo Phật dạy về lẽ hiếu nghĩa: tri ân & báo ân. Chừng mực nào đó, trọng tâm của Hiếu đạo là hướng về đấng song thân sinh thành dưỡng dục. Nhưng ở nghĩa rộng hơn, trong thế giới duyên sinh tương tác này, mọi chúng sinh đang hiện hữu, đều tồn tại trong mối hỗ tương duyên khởi trùng trùng. Nói cho dễ hiểu, ta đang ở trong vòng tay nâng đỡ và cưu mang của gia đình và xã hội. Do đó, đức Phật dạy ta phải biết tri ân: hiếu thảo với cha mẹ, hiếu kính với người trên, hiếu hòa với kẻ dưới, hiếu thuận với mọi người, và hiếu sinh với mọi loài. Trong đó pháp lễ kính sáu phương đã phản ảnh trọn vẹn tinh thần ấy. Nhìn chung, tinh thần hiếu đạo là đặc cách giáo dục nhân bản trong Phật giáo.
Thất giác chi là con đường thực hành đưa đến đời sống an vui hạnh phúc, thoát khỏi khổ. Đức Phật nói : "Nước của bốn biển chỉ có một vị duy nhất, đó là vị mặn của muối. Giáo pháp của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát".
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 15/07/2018
Ngày nay con người thường xuyên bị phân chia thành nhóm này khối kia chỉ vì những danh hiệu và những tên gọi. Thay vì chúng ta nên tìm hiểu ý nghĩa và nội dung đích thực thì chúng ta lại nắm giữ và chấp mắc vào danh hiệu và tên gọi. Thay vì chúng ta cố gắng tìm hiểu một người thực sự là người như thế nào và người đó thực sự tin tưởng cái gì thì chúng ta lại dựa vào tên gọi hay danh hiệu của người đó mà bình phẩm và kỳ thị. Chúng ta mường tượng ra một ý nghĩa chung chung cho một tên gọi hay danh hiệu nào đó rồi cứ yên chí cho rằng ai mang tên gọi hay danh hiệu như thế thì đại để là người như vậy. Đầu óc hẹp hòi của chúng ta nghĩ rằng: "Nếu họ là một người Phật tử Nguyên Thủy, thì họ sẽ không tin tưởng những giáo lý của Đại Thừa. Nếu họ là một người Thiên Chúa giáo thì họ không tin theolời dạy của Phật giáo. Nếu họ có niềm tin tôn giáo thì họ không còn tinh thần khoa học nữa..."
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Mỹ (Tiền Giang) vào ngày 13/09/2015
Tùy hỷ là vui với niềm vui của người khác. Khi thấy người khác thành công hay làm được việc gì đó mang tại tiếng tăm, lợi lộc, được nhiều người ngợi khen, biết đến; ta chung vui thật sự với niềm vui đó của họ.
Người đời thường có những hình thức sám hối với tư tưởng tà kiến như: lấy máu động vật để tạ tội với thần linh, đem lễ vật cúng tể để xin tội, tra tấn bản thân mình bằng đòn roi, …Nhưng đạo Phật thì khác. Sám hối đúng Pháp trên tinh thần quán xét lại tội lỗi mình đã gây tạo và thành tâm ăn năn, tự mình cải thiện không lặp lại hành động đó. Đây chính là Ý nghãi sám hối của đạo Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phổ Hiền Bồ Tát đã nói: "Nếu tội của chúng sanh có hình tướng, thì tất cả hư không cũng không thể chứa hết”. Bởi tội từ tâm mà sanh ra, không hình tướng nên chúng ta phải diệt tội từ trong tâm có nghĩa là dùng tâm thành kính để hối lỗi. Đạo Phật thường lấy ngày 14 ÂL và 30 ÂL để làm ngày Sám Hối. Khi đó các Phật Tử hội tụ đến chùa đọc kinh và lạy Hồng Danh 108 Đức Phật. Đây là hình thức của nghi thức Sám Hối đúng pháp. Tuy nhiên, không có nghĩa là đọc kinh và lạy xong thì tội nghiệp tiêu trừ hẳn mà đây là phương tiện để thông qua kinh kệ giúp mọi người thức tỉnh lại những sai lầm của mình và biết ăn năn hối lỗi. Lạy Phật để nhớ công hạnh của Chư Phật để noi theo. Chính vì nhận thức được lỗi sai và có hành động sửa lỗi nên chính tự thân mỗi người mới tự diệt trừ những nghiệp xấu đã gây tạo trong đời sống hằng ngày và các quá khứ.
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 21/10/2012. Trong pháp thoại: Ăn uống và từ bi, SC Tâm Tâm giải thích rõ về sự độc hại của thực phẩm sinh trưởng trong môi trường có nhiều độc tố . Từ đó, Sư Cô khuyên chúng ta nên hạn chế và cẩn trọng trong việc chọn lựa nguyên liệu khi chế biến thức ăn. SC cũng nhắc nhở : ăn như thế nào để tăng trưởng lòng từ bi. Hãy nhớ rằng mọi sinh vật đều có sự sống như con người. Ý pháp này được Sư Cô truyền đạt qua câu chuyện đệ tử Chung Đán làm nghề mổ heo 15 năm trong Kinh Pháp Cú 15. Hãy quán thức ăn từ cái tâm không tham, không sân, không si, không khởi lên tâm dính mắc. Do đó, việc nuôi dưỡng tâm từ cần phải thực hành thường xuyên. Việc mượn thực phẩm nuôi thân phải xuất phát từ tâm an lạc và thọ hỷ. Nói cách khác, việc giữ giới không sát sanh là điều kiện tiên quyết mà những người con Phật cần quán chiếu và thực hành hàng ngày.
Không gian võ trụ bao la, vô số địa cầu thảy là tứ đại, thì thảy in như nhau không khác, nào đợi phải đi đâu! Có thế giới đang có Phật nhiều, có thế giới đang có Trời nhiều, có thế giới đang có người nhiều, có thế giới đang có thú nhiều, có thế giới đang có cây nhiều, có thế giới đang có cỏ nhiều, có thế giới đang có đất nước lửa gió mới tượng. Cũng như nơi loài người có xứ đang có ông già nhiều, có xứ đang có người lớn nhiều, có xứ đang có trẻ em nhiều, có xứ đang có phụ nữ nhiều, có xứ đang có nam nhân nhiều, có xứ người tu đang có nhiều, có xứ kẻ thiện đang có nhiều, có xứ kẻ ác đang có nhiều, có xứ đang vui cười, có xứ đang khóc lóc v.v… nói chẳng hay cùng.
Cái biết mới kêu là thọ cảm, cũng gọi là tình. Cái biết khá hơn kêu là tư tưởng, cũng gọi là ý. Cái biết lớn rộng nữa kêu là hành vi, cũng gọi là thân. Cái biết cứng chắc hơn kêu là thức trí, cũng gọi là khẩu. Cái biết già kêu là giác, cũng gọi là tánh, hay tâm chơn. Tình thọ và ý tưởng, cũng gọi là tâm vọng.
Nếu được bạn hiền trí/ Ðáng sống chung, hạnh lành, Nhiếp phục mọi hiểm nguy/ Hoan hỷ sống chánh niệm.”
Chánh Pháp mà đức Thế Tôn đã khéo thuyết giảng là "thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu". Chánh Pháp ấy là Bốn Thánh Đế và sự tu tập chân chánh là sự thực hành con đường Thánh Đạo Tám Ngành (còn được gọi là: Bát Chánh Đạo, hay Bát Thánh Đạo): Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định; y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, y chỉ từ bỏ; là con đường duy nhất đưa đến đoạn tận Tham Sân Si, chấm dứt khổ đau, chấm dứt sanh tử luân hồi, chứng ngộ Niết Bàn.
Nội dung những lời dạy của Đức Phật là phát triển tâm thức. Con đường thật sự đưa đến đạo quả giác ngộ khai mở ngay trong tâm thức của con người. Dù trong bất cứ thời gian hay không gian nào mục tiêucủa con đường đó không thể đổi khác nhưng hình thức biểu hiện ra bên ngoài của Phật giáo thì phong phú và đa dạng. Chúng biến đổi tùy thuộc vào mỗi quốc độ khác nhau vì những hình thức nghi lễ của Phật giáo hội nhập hài hòa với sắc thái văn hóa của từng quốc gia, từng địa phương khác nhau.
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 18/06/2017 (nhằm 24/05/Đinh Dậu)
Bài giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long)
“Lời vàng tiếng ngọc gởi về con/ Đạo đức bền tâm giữ vẹn tròn/ Dầu cách xa Thầy muôn vạn dặm/ Gìn lòng son sắt sánh bằng non”.
Phật giáo sử dụng âm lịch nên ngày Rằm và ngày cuối tháng là thời gian dành cho những sinh hoạt lễ hội. Đông đảo cư sĩ Phật tử về chùa tụng kinh, cầu nguyện và làm các công đức qua việc bố thí cúng dường. Có người thọ trì Bát quan trai giới trọn ngày. Trong những ngày này nhiều ngôi chùa ở Trung Quốc cung cấp bữa ăn trưa chay tịnh miễn phí cho dân chúng.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường vào ngày 08/07/2012
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Yên
Viên Thông hiệu quý Đại sĩ Quán Âm Mười hai nguyện lớn Quảng đại cao thâm Vào nơi khổ hải Độ khỏi mê tân Tầm thinh cứu khổ Chốn chốn hiện thân. Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát.
Ai được xem qua chuyện Hạc Gà? Là gương soi chiếu của đời ta! Chim tham ăn phải sa vòng bẫy/ Cá thích mồi ngon bị khứa ba/ Hạc bởi không lương nên tự tại/ Gà tuy lúa sẵn, chủ đâu tha/ Ham mê chung đỉnh nên trầm lụy! Cửa Phật chờ mình sớm bước qua.
Hình tượng Đức Phật trong trạng thái thiền tọa thanh thoát là hình ảnh đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy khi bước vào một ngôi chùa Phật giáo. Tâm hồn của chúng ta bỗng trở nên nhẹ nhàng, thanh thản khi chúng ta chiêm ngưỡng được những nét bình lặng trên khuôn mặt của Đấng Từ Phụ. Vì sao? Vì chúng ta cảm nhận trong tâm hồn của chính mình cũng có những góc yên tĩnh và ấm áp. Khi chúng ta cúi đầu đảnh lễ Đức Từ Phụ Bổn Sư và dâng lên Ngài một nén hương hay một cành hoa thì những người Phật tử có chánh tín không nghĩ đến ân điển hay phước lành do ảnh tượng bằng gỗ hay bằng đồng mang lại. Thật ra lúc đó chúng ta đang tiếp xúc và đang lễ kính những phẩm chất mà chúng ta tương đồng với Đức Phật, những phẩm chất sẵn có trong tự thân của mỗi chúng ta.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường vào ngày 08/01/2008
Vào ngày 01/09/2018, Câu Lạc Bộ Doanh nhân & Thiền tập trung tu học 1 ngày tại Pháp Viện Minh Đăng Quang. Ngoài các thành viên của CLB, chương trình còn có sự tham gia của các học viên bên ngoài quan tâm đến Thiền và thực hành thiền. Buổi sáng, sau khi báo danh và đảnh lễ Tam Bảo, các học viên đã vân tập về Thiền Đường để được chia sẻ về pháp môn tu thiền và hướng dẫn cách thực hành thiền do Đại đức Thích Minh Liên hướng dẫn. Tiếp theo là thời pháp thoại với chủ đề "GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC MỘT ĐỜI NGƯỜI". Đại đức Thích Minh Liên nhấn mạnh: giới doanh nhân ngoài vấn đề phát triển làm giàu sự nghiệp kinh doanh của mình cũng cần lưu tâm đến gia đình và xã hội. Quan trọng hơn nữa là trong kinh doanh dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, khó khăn hay thuận lợi, thành công hay thất bại… doanh nhân cũng lưu tâm tích lũy những chủng tử thiện lành, những hạt giống hiền thiện trong tâm thức của mình. Đây chính là “giá trị đích thực một đời người”. Sau thời pháp thoại, các học viên đã được gặp gỡ Chuyên gia Sức khỏe Mai Hằng chia sẻ về "Dinh dưỡng trị bệnh" và Chuyên gia Tâm lý Thái Huy Khuyên chia sẻ về "Nguyên nhân gây bệnh và giá trị thực của sức khỏe”. Buổi trưa các học viên đã dùng bữa ăn dinh dưỡng do nhóm Mai Hằng phục vụ. Sau giờ nghỉ trưa ngắn là chương trình Thiền trà và Pháp đàm. Các doanh nhân đã đặt các câu hỏi, thắc mắc xoay quanh chủ đề "GIÁ TRỊ ĐÍCH THỰC MỘT ĐỜI NGƯỜI" cũng như trình bày những khúc mắc trong đời sống tu học và kinh doanh của mình. Mọi thắc mắc đều được bàn luận và giải đáp nhằm làm sáng tỏ vấn đề để các doanh nhân tùy theo điều kiện môi trường nghề nghiệp nhằm phát triển nghề nghiệp kinh doanh và thực tập thiền định, tu học của mình. Chương trình tu học 1 ngày của Câu Lạc Bộ “Doanh nhân & Thiền” với chủ đề “Giá Trị Đích Thực Một Đời Người” đã khép lại trong sự an lạc và hoan hỉ của các học viên.
Bát Nhã tức là trí tuệ còn Ba-La-Mật là tới bờ bên kia. Bờ bên nầy là thế gian còn bờ bên kia là Niết bàn. Hoặc là bờ bên nầy là dẫy đầy tham lam còn bờ bên kia là Phật đạo. Cũng có thể hiểu là thấy Có, thấy Không là bờ bên nầy còn có đủ sáng suốt để phá cái Có, cái Không là đến bờ bên kia. Do đó Ma-ha Bát-Nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh có nghĩa là bài kinh nằm lòng nói về Đại Trí tuệ. Vậy Bát Nhã Ba-La-Mật là cái sáng suốt có thể đưa người tới bờ bên kia, tức là được giác ngộ. Cái sáng suốt nầy được gọi là cái sáng suốt triệt để vì nó không hình, không tướng. Mặc dù chúng ta không thấy được nó cũng như không thể nào diễn tả về nó, nhưng thật ra chúng ta có thể biết được sự hiện hữu của nó, tức là biết nó bằng cách xuyên qua các công dụng, tức là việc làm của nó. Chẳng hạn như khi chúng ta bố thí tiền của cho người nghèo khổ thì tâm chúng ta cả.m thấy hân hoan khoan khoái vì đây là việc thiện. Cái khoan khoái nầy chính là sự bộc lộ thiện tâm của chúng ta Nhưng đố ai tìm ra được cái thiện tâm của mình? Vì thế cái trí tuệ Bát nhã cũng vậy. Chúng tanghiệm biết được nó là nhờ nhìn vào cái nhân dụng của nó mà thôi.
Phật giáo du nhập vào Tây Tạng lần đầu tiên là do công của hai vị công chúa Phật tử - một từ Nepal và một từ Trung Quốc. Hai vị công chúa này kết hôn với vua Songtsen Gampo của Tây Tạng. Nhưng lúc ấyPhật giáo vẫn chưa được phổ hóa rộng rãi trong dân chúng. Sau đó nhà sư Santaraksita và vị tăng phái Mật Thừa Padmasambhava từ Ấn Độ du hóa sang Tây Tạng, quảng bá giáo lý Đại Thừa và Mật Thừa. Đến thế kỷ thứ 8, Thiền Tông Trung Quốc cũng truyền sang Tây Tạng.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường vào ngày 28/04/2013
Bài giảng tại chùa Pháp Vân vào ngày 27/11/2016 (28/10/Bính Thân).
Người cam tâm tình nguyện chịu thiệt, lại nhận được càng nhiều. Người có thể chịu thiệt, nhân duyên nhất định sẽ tốt, nhân duyên tốt, cơ hội tự nhiên sẽ nhiều. Mỗi người khi còn sống, có thể nắm bắt một hai lần cơ hội là đủ! Người yêu thích chiếm lợi, muốn được hưởng lợi hơn người khác cuối cùng cũng chiếm không được lợi đâu! Chỉ là nhặt được một bụi cỏ mà mất đi một mảnh rừng rậm. Người ích kỷ, luôn nghĩ đến bản thân hay người thân gia đình mình thì những chuyện tốt đẹp khác cũng tự nhiên không có quan hệ đến họ.
Đức Phật nói rằng người nào điều phục được tâm sẽ có an vui, nếu tâm không được rèn luyện sẽ sinh ra đau khổ. Do vậy đạo Phật cực kì chú trọng đến tinh thần. Theo đó cái căn bản cần làm trong sạchchính là tâm. Khi tâm được điều phục thì đó là niết bàn hay giải thoát, người không điều phục được tâm sẽ trôi mãi trong vòng đời vốn còn gọi là luân hồi. Những đặc tính và trạng thái tinh thần tốt đẹp sẽ làm trong sạch tâm thức.
Phật giáo truyền từ Trung Á đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ nhất sau TL. Sau đó, Phật giáo lại du nhập vào Trung Quốc trực tiếp từ Ấn Độ bằng đường biển và đường bộ. Trong ba thế kỷ đầu TL ở Trung Quốc đã có được hệ thống truyền thừa giới luật chính thức dành cho Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni. Những thế kỷ sau đó là những thế kỷ "nhập Trúc cầu pháp", những nhà chiêm bái du hành sang Ấn Độ để học hỏivà thỉnh kinh sách từ Ấn Độ mang về Trung Quốc.
Bài giảng tại Chùa Linh Phong (Tiền Giang) vào ngày 26/04/Nhâm Thìn
Bài giảng tại chùa Pháp Vân vào ngày 07/05/2017 (nhằm 12/04/Đinh Dậu)
Tham ái đoạn tận,  Giác ngộ chánh giác,  Khói mù tiêu tan,  Ô uế trừ sạch, Xứng đáng cúng dường,  Dạ xoa thanh tịnh.  Vô thượng Thánh nhân,  Không thể cân lường, Ðại nhân Ðại giác, Ðạt đến danh xưng.  Tôi thật chính là,  Ðệ tử Thế Tôn.
Khi rơi vào những điều bất như ý hay bị sự ngăn cản của người khác, người học Phật cần phải nhìn nhận thẳng vào vấn đề, tìm cơ hội trong nghịch cảnh để làm chủ tình huống và biết cách xoay chuyển tình thế. Cho nên, khi nhìn nhận lại những thành quả mà mình đã đạt được, nhiều người lại thầm cảm ơn nghịch cảnh, vì nhờ đó, chúng ta mới thức tỉnh, mới biết vùng dậy mà thay đổi bản thân mình phù hợp với hoàn cảnh xã hội.
Bài giảng Khai thị đầu Xuân tại Tu viện Tường Vân (H.Bình Chánh)
Hình ảnh những nhà sư mặc y vàng, những vòng hoa thơm ngát dâng cúng ở những ngôi chùa, âm điệu tụng niệm trầm bổng bằng tiếng Pali và tư thế thiền định lặng lẽ đến chỗ sâu thẳm của bình an là những đặc điểm nổi bật của truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy.
Bài giảng tại chùa Bửu Lâm (Tiền Giang) vào ngày 14/03/2017
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang vào ngày 14/11/2016 (nhằm Rằm tháng 10 năm Bính Thân)
Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài là nói lên tinh thần Phật giáo Việt Nam muốn dạy, muốn nhắc cho Phật tử Việt Nam tu Phật, phải có đủ đức tánh nhẫn nhục để làm tăng trưởng lòng từ bi. Tu Phật phải có tâm hiếu thảo với cha mẹ, kính nhường anh em. Như vậy mới đúng là đệ tử Phật, đúng với tinh thần Phật giáo Việt Nam. Hiểu và hành như thế, không ai dám nói tu theo Phật là mê tín dị đoan.
Bản thân mỗi người chúng ta có thể có khuynh hướng nghiêng về một truyền thống và quan tâm tìm hiểu kỹ lưỡng truyền thống đó. Tuy nhiên, không một ai trong chúng ta có thể khẳng định rằng truyền thống này là thù thắng hơn những truyền thống khác hay truyền thống này là thích hợp nhất cho tất cả mọi người. Một người có ý hướng cục bộ, ý muốn tự tán hủy tha, tư tưởng chia rẽ thành nhóm khối thì đó là một người gây tổn hại cho đạo Phật. Thay vì làm như vậy chúng ta nên trân trọng tính cách của đạo Phật, chấp nhận những căn tánh khác nhau, khuynh hướng và nền tảng văn hóa khác nhau của từng con người khác nhau.
Bài giảng tại chùa Bửu Liên (Gò Công) vào ngày 17/03/2017
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang vào ngày 30/4/2018 (nhằm 15/03/Mậu Tuất)
Đạo là thắng nhiếp vô thường/ Từ trong vô lượng nhiễu nhương thế trần/ Thấy, nghe, ngửi, nếm… phù vân/ Cảm xúc và biết vạn phần tịnh thanh/ Vô sanh nhẫn pháp hóa thành/ Vui chịu tự tại an lành như không/ Cảnh nào cũng như dòng sông/ Nhẹ nhàng năm tháng tươi hồng vào ra. Nam mô Bát nhã ba la.
Đời sống của những bậc chân nhân đã nâng cao giá trị của loài người chúng ta. Thật là một ân phước, những vị ấy đã xuất hiện và sinh sống giữa loài người chúng ta. Tiểu sử của những bậc chân nhân như vậy làm cho chúng ta phấn chấn. Những vị ấy đã chỉ bày phương pháp để chúng ta vượt qua những khó khổ và làm lợi lạc cho tha nhân. Chúng ta có thể tìm thấy rằng những việc xảy ra trong đời sống của Đức Phật có nhiều việc tương tự với những gì chúng ta đang gặp phải trong cuộc sống, tương tự với những nỗ lực mà chúng ta đang thực hiện để tu sửa bản thân.
Một thời đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà,nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các tỳ-kheo: “Nên tu tập pháp bốn đế. Những gì là bốn? Thứ nhất là Khổ đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Thứ hai là Khổ tập đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Thứ ba là Khổ tận đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩa không thể cùng, thuyết pháp vô tận. Thứ tư là Khổ xuất yếu đế, mà nghĩa không thể tận, nghĩakhông thể cùng, thuyết pháp vô tận.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường vào ngày 08/06/2017
KHẤT SĨ là học trò khó đi xin ăn để tu học. Khất sĩ là cái sống của chơn lý võ trụ, mà tất cả chúng sanh đều là học trò cả thảy. Bởi chúng sanh là cái biết, từ chưa biết đến đang biết, và cái biết sẽ hoàn toàn ngơi nghỉ. Các sự thấy, nghe, hiểu để đem lại cho cái biết. Biết quý báu hơn không biết, có biết mới hết mê lầm chấp trật, khổ sở nạn tai. Từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trước đến sau, từ chiều đến sáng, mỗi lúc cái biết càng phân biệt, làm việc tích trữ, lớn to và đi tới, làm cho chúng sanh càng ngày càng được thêm sự học hành. Chúng sanh đây là căn thân và chủ thức (là người nhận biết). Cho nên cái biết chủ cần phải sống, lớn, ăn, vui, yên và còn mãi mãi. Chính biết là Ta, là mục đích của chúng sanh, là chơn lý của cuộc đời, là tinh ba của võ trụ. Chính chơn lý hay triết lý mới là môn học thật tế, lợi ích, đi ngay đến Niết-bàn kêu là đạo, là sự học không hai, là cái học của ta, nó ở với ta, nuôi sống cái ta, nó làm ta vậy.
Bài giảng tại chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 15/04/2012 (nhằm 25/03/Nhâm Thìn)
Mỗi giới điều đúng nghĩa phải là một niềm an vui chớ không phải là một gánh nặng. Giới điều không phải được thiết lập với mục đích để ngăn cản những phút giây vui sống và khiến cho chúng ta cảm thấybị tước đoạt tự do. Mục đích của việc thọ giới là làm cho chúng ta tạo nên một sức mạnh nội tâm, giúp cho chúng ta đủ sức không làm những điều mà chúng ta không muốn làm. Một khi biết được rằng việc sát sinh, trộm cắp, lòng vị kỷ... chỉ gây hại cho bản thân chúng ta, cho người khác, trong hiện tại và tương lai thì chúng ta sẽ khởi ý muốn tránh xa những việc đó. Thọ lãnh những giới điều giúp cho chúng ta có thêm sức mạnh và nghị lực. Vì vậy có câu nói rằng giới luật chính là những món trang sức tạo nên uy nghi của người có trí.
Bài giảng tại chùa Thiên Trường (Tiền Giang) vào ngày 18/11/2016
Lễ giáo là giáo lý của cách bày tỏ ý cung kính, hay cũng tức là cách bày tỏ ý cung kính, là một phương pháp giáo hóa, một giáo lý tốt đẹp quan trọng của đời sống nhơn loại. Lễ giáo là nền tảng của sự thương yêu, thiện cảm, thân thiện, dung hòa tốt đẹp với nhau, ấy là phép sống đời tốt đẹp nên gọi là lễ phép. Lễ phép là một qui tắc, là phép tắc, là một kỷ luật thiện, mà người có lễ phép, là sẽ được sự vui sướng nhứt trong đời.
"Tức tâm tức Phật", theo sự hiểu biết thông thường mà hầu như ai ai trong chúng ta, những người đang tu Phật, dù theo Tông phái nào, Pháp môn nào, chỉ cần vừa chợt nghe qua những lời đối thoại đó, câu nói xuất phát từ miệng ai đó vừa lọt vào tai mình một cách rành rọt, hay câu chữ vừa thoáng qua rõ ràng trước mắt, thì mọi người đều tức khắc nhận ra được ý nghĩa của câu đáp, liền có thể hiểu ngay rằng "tâm là Phật", "Phật là tâm"  hoặc  "tâm này là Phật" hay "tâm ấy là Phật", "tâm kia là Phật"  v.v… và  v.v…
Quy y chư Phật, Giáo Pháp và Hiền Thánh Tăng nói gọn là quy y Tam Bảo sẽ giúp cho chúng ta tập trung tinh lực vào những việc có ý nghĩa cho cuộc sống, sẽ giúp cho cuộc sống của chúng ta có một định hướng trong sáng. Quy y Tam Bảo tức là khẳng định một lần nữa rằng có con đường Chánh đạodẫn dắt chúng ta đến bến bờ hạnh phúc.
Ai cũng muốn công việc của mình được suôn sẻ, cuộc sống êm xuôi, hạnh phúc. Tuy nhiên, sống ở đời thật khó. Bởi dù hữu ý hay vô ý, dù muốn hay không, đôi khi ta vẫn không tránh khỏi những bước đi chùng chình, những âu lo, dằn vặt từ những điều không mong muốn. Những điều không mong muốn ấy không hẳn là những thảm họa, là bệnh hiểm nghèo hay tai nạn thương tâm, mà đơn giản, thường gặp là những chuyện thị phi.
Bài giảng tại Tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) 
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (Long An) vào ngày 21/01/2016
Vào lúc 15 giờ ngày 24.4. Kỷ Hợi (nhằm ngày 28.5.2019), buổi lễ Bế mạc Khóa bồi dưỡng kinh nghiệm trụ trì lần thứ 16 đã diễn ra tại Giảng đường Pháp viện Minh Đăng Quang.
Khóa Bồi dưỡng kinh nghiệm trụ trì lần thứ 16, PL. 2563 – DL. 2017, được tổ chức tại Pháp viện Minh Đăng Quang, từ ngày 18 đến 24 tháng 4 năm Kỷ Hợi (22 – 28/5/2019), với chủ đề: “Tìm hiểu nét đặc thù của Hệ phái Khất sĩ” được diễn ra trang nghiêm, trọng thể.
Khóa Bồi dưỡng kinh nghiệm trụ trì lần thứ 16, PL. 2563 – DL. 2017, được tổ chức tại Pháp viện Minh Đăng Quang, từ ngày 18 đến 24 tháng 4 năm Kỷ Hợi (22 – 28/5/2019), với chủ đề: “Tìm hiểu nét đặc thù của Hệ phái Khất sĩ” được diễn ra trang nghiêm, trọng thể.
Tổ sư Minh Đăng Quang dạy: Cho nên người tu trong đạo Phật cần phải biết rằng từ văn học là nghe nói để tiến lên tư học là suy gẫm, và đến hành học là học trong việc làm, biết nơi sự đi thì mới mong đắc học. Mà nên nhớ rằng con mắt ngó xa quá thì chơn đi vấp té. Vậy thì muốn đi, trước ta phải biết mục đích phương hướng, thỉnh thoảng ngó chừng, còn hiện tại là ta phải biết thấy nơi trước mỗi bước chưn mới là đi được, mà đừng thèm ngó đâu đâu vơ vẩn.
Tổ sư Minh Đăng Quang dạy: Cho nên người tu trong đạo Phật cần phải biết rằng từ văn học là nghe nói để tiến lên tư học là suy gẫm, và đến hành học là học trong việc làm, biết nơi sự đi thì mới mong đắc học. Mà nên nhớ rằng con mắt ngó xa quá thì chơn đi vấp té. Vậy thì muốn đi, trước ta phải biết mục đích phương hướng, thỉnh thoảng ngó chừng, còn hiện tại là ta phải biết thấy nơi trước mỗi bước chưn mới là đi được, mà đừng thèm ngó đâu đâu vơ vẩn.
Chúng ta cũng nên hãy biết dùng phép thờ phượng tạm, làm phương pháp cứu thế độ đời, chánh lý trong sạch trong lúc khổ nguy; đó là một sự thích hợp với thời cơ, dùng tạm hữu vi để bước tới vô vi, chân thật, yên vui vĩnh viễn. Vì vô vi là đúng lý quí báu hơn hết. Ai ai cũng nên giác ngộ lẽ tốt đẹp của thờ phượng ấy hết!
Qua mô hình tịnh xá cho thấy Tổ sư phác họa rất khoa học. Mỗi phần kiến trúc đều dựa trên nền tảng giáo lý mà xây dựng nên mô hình mang tính cách muốn nhắc nhở hàng đệ tử không xa rời Chánh pháp Đức Như lai. Hình dáng ngôi chánh điện bát giác, thờ duy nhất tôn tượng Đức Bổn Sư, nhìn vào rất thoáng, không bị ảnh hưởng theo lối của Trung hoa có rồng phụng và thờ phượng rườm rà. Có thể nói, kiến trúc đặc thù của Hệ phái Khất sĩ đã đóng góp điểm tô cho nền nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Việt Nam thêm phong phú. Chính những điểm đặc thù mà Tổ sư sáng tạo đã làm cho Phật giáo Khất sĩ ngày càng phát triển và có thể sánh vai cùng với các truyền thống lớn của Phật giáo.
Thượng tọa đã chia sẻ về việc thực hiện Hiến chương, chủ trương đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Luật tín ngưỡng tôn giáo, trách nhiệm và bổn phận của vị Trụ trì. Trách nhiệm của một vị trụ trì là hết sức ý nghĩa và quan trọng, mỗi một người trụ trì chính là hình ảnh của Giáo hội, thực hiện tốt trách nhiệm của trụ trì là góp phần xây dựng hình ảnh tốt đẹp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Trong thời kỳ xã hội phát triển nhanh chóng thì vai trò của người của người trụ trì lại vô cùng quan trọng, phải làm sao phải đáp ứng kịp thời, chăm lo được những nhu cầu tín ngưỡng cần thiết của Phật tử cũng như về việc hoằng pháp và hướng dẫn Phật tử cho phù hợp với đà phát triển chung.
Đường lối “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp” của Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam nhằm tiếp nối tư tưởng giải thoát của đức Phật ngày xưa, luôn chiếm được vai trò quan trọng trong tư tưởng. Do vậy, dù Hệ phái chỉ mới hình thành (1947) nhưng đã phát triển từ miền Trung ra miền Bắc vào cuối miền Nam Việt Nam, và ra cả hải ngoại như Mỹ, Canada, Úc, Pháp… và tinh thần “Cái sống là phải sống chung; cái biết là phải học chung và cái linh là phải tu chung” đã thấm nhuần trong xương tủy của hàng đệ tử trong Hệ phái.
Đường lối “Nối truyền Thích Ca Chánh pháp” của Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam nhằm tiếp nối tư tưởng giải thoát của đức Phật ngày xưa, luôn chiếm được vai trò quan trọng trong tư tưởng. Do vậy, dù Hệ phái chỉ mới hình thành (1947) nhưng đã phát triển từ miền Trung ra miền Bắc vào cuối miền Nam Việt Nam, và ra cả hải ngoại như Mỹ, Canada, Úc, Pháp… và tinh thần “Cái sống là phải sống chung; cái biết là phải học chung và cái linh là phải tu chung” đã thấm nhuần trong xương tủy của hàng đệ tử trong Hệ phái.
Hệ phái Khất Sĩ chú trọng con đường hành đạo, một phần dẹp bỏ bản ngã tự cao, tự đại, phải xin vật chất để nuôi thân mạng, xin giáo pháp, kinh nghiệm trong cuộc sống để trưởng dưỡng trí tuệ, phải biết đủ trong mọi hoàn cảnh, gắn chặt với đạo pháp, với lý tưởng sống chung tu học, hòa hợp với cộng đồng, làm lợi người, lợi mình, sống trong giới luật, thiền định an trú trong chánh pháp, khi đó an lạc sẽ hiện hữu mà không phải tìm kiếm đâu xa.
Hòa thượng đã chia sẻ kinh nghiệm làm một vị trụ trì, tinh thần siêng năng công phu "Tu sao cây củi thành cây cảnh"
Đức Tổ sư đã khẳng định rất hùng hồn rằng: “Ấy vậy, ai hành đúng theo Tứ y pháp tức là đúng theo Chánh pháp của chư Phật ba đời, là giáo lý y bát chơn truyền vậy”.  Hay như một đoạn khác cũng trong quyển này, Ngài có dạy: “Ngoài Tứ y pháp ra thì không phải đạo Phật, không giống chư Phật, chư Tăng và không phải là giáo pháp chánh chơn của Phật. Vì vậy cho nên Tứ y pháp là đứng đầu trong tạng Luật và khi xưa kẻ mới tu xuất gia nhập đạo thì Phật dạy cho Tứ y pháp trước hết, và dạy cho biết đạo Phật là đạo Khất sĩ vậy”. Qua lời dạy trên chúng ta có thể thấy được một điều rằng: Tứ y pháp chính là pháp hành mà chư Phật đã hành trì, Tăng đoàn đã vâng hành trong đời sống thường nhật, ngoài chúng ra thì chắc chắn không phải là đạo Phật chơn chánh, không phải là Khất sĩ y bát chơn truyền. Chính tầm quan trọng như thế, nên Tứ y pháp đã trở thành pháp hành quan trọng đối với người xuất gia, và chúng có vai trò quan trọng hàng đầu trong Luật tạng, là học giới mà bất cứ ai bước vào con đường Khất sĩ cũng cần phải học và vâng hành trước tiên, là con đường nhập đạo của một người xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn. Cho nên pháp hành này cũng được gọi là giới pháp. Và chính giới pháp này sẽ giúp cho vị hành giả có được thời gian để hạ thủ công phu mà không phải vướng bận, lo lắng về tứ vật dụng, ăn mặt ở bệnh, không cần phải tốn thời gian cho việc mưu cầu cuộc sống, tranh đấu và tạo ra những bất thiện nghiệp, để rồi trôi lăn mãi trong ba cõi sáu đường.
Hầu hết các tịnh xá được xây cất dưới dạng bát giác, tượng trưng cho Bát chánh đạo, đây là con đường Trung đạo duy nhất đưa chúng sanh đến quả vị cứu cánh Niết-bàn. Bên trên là hình tứ giác tượng trưng cho Tứ quả Thanh văn như nhắc nhở tứ chúng muốn thoát ra khỏi khổ đau phải biết được nguyên nhân của khổ và con đường đi đến diệt khổ. Bên trong chánh điện tôn thờ bảo tượng Đức Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni trong bảo tháp giữa bốn trụ cột, tượng trưng cho tứ chúng đồng tu, mỗi đại trụ có bông sen nâng đỡ với ý nghĩa: tứ chúng tu phải dựa trên nền tảng tam nghiệp thanh tịnh như hoa sen mới chống đỡ được ngôi nhà Phật pháp. Mái tháp gồm 13 tầng, là 13 nấc thang tiến hóa của chúng sanh từ địa ngục đến quả Phật, bốn cửa tháp thường để trống hàm ý Tổ bảo tứ chúng hãy mở rộng lòng từ, bi, hỷ, xả đến với tất cả chúng sanh muôn phương. Bề cao tháp cao 3 mét và chu vi mỗi bên 1,8 mét. Nền tháp gồm ba bậc, tượng trưng cho ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. 
Ông trình bày và phân tích những điểm chính cần quan tâm của Luật Tín ngưỡng Tôn giáo sau hơn một năm áp dụng, qua các điểm chính sau: 1. Luật mở rộng những chủ thể của tôn giáo, mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do theo tôn giáo, hoặc không theo tôn giáo; đặc biệt, ngay cả những người đang bị giam giữ trong các trại tạm giam. Quyền tự do tín ngưỡng là một trong bốn quyền căn bản của con người được công nhận bình đẳng trên toàn thế giới. 2. Pháp nhân tôn giáo cũng được quy định là phi thương mại, tạo thuận lợi cho giao dịch và quan hệ với xã hội được thuận lợi. 3. Các sinh hoạt thường xuyên tại tự viện, tịnh xá chỉ cần đăng ký một lần, những năm sau không cần đăng ký lại, các hoạt động chưa đăng ký thì đăng ký bổ sung. 4. Cho phép thành lập các điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung, tạo điều kiện cho việc sinh hoạt tôn giáo có thể không chỉ diễn ra trong ngôi chùa, tịnh xá.
Thuyền Bát-nhã của Tổ sư Minh Đăng Quang dung thông cả hai mặt: Đời và Đạo, Tục đế và Chân đế. Đời: Thiết lập một thế giới thật sự an lạc hòa bình, trên nền tảng đạo đức căn bản (Tục đế). Đạo: Hướng dẫn con đường tâm linh, từ sinh tử đến Niết-bàn thể nhập Chơn như tự tánh (Chơn đế).
Pháp phục truyền thống của Hệ phái là một nét đẹp nhân văn cần phải bảo tồn, mỗi người chúng ta nếu kính Tổ, trọng Thầy đều có trách nhiệm giữ gìn truyền thống mà mình đã và đang tiếp nối. Nhưng điều cần thiết là các bậc Giáo phẩm Lãnh đạo Hệ phái nên quan tâm và kịp thời chấn chỉnh khi có hiện tượng tha hóa, như thuở xưa Đức Thế Tôn đã ân cần nhắc nhở Tôn giả Nanda. Việc Tôn giả Nanda sau khi nghe lời dạy của Thế Tôn đã chuyển sang mặc y phấn tảo, sống đờikhất thực, đoạn trừ dục vọng là bài học quý giá cho những người con Phật hậu thế suy ngẫm và noi gương.
Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó nhất là tu tại gia, cho nên có câu: Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. Ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ lại khó tu hơn một chút vì phải giữ lòng ngay thẳng, không gian manh lường cân tráo đấu; ở nhà lại khó hơn nữa vì bạn ác rủ rê làm ta dễ bị sa đọa.
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang (Q.2) vào ngày 12/03/2017 (nhằm Rằm tháng Hai năm Đinh Dậu)
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 26/05/2019 (nhằm 22/04/Kỷ Hợi) với nội dung: Làm gì khi kề cận cái chết, như một lời cảnh tỉnh: “(…) muốn tiến tu phải giác ngộ được sự vô thường, mạng người trong hơi thở, ‘kẻ giỏi giết người cầm đao theo sau’ luôn sẵn sàng ra tay nếu ta buông lung phóng dật. Người tu luôn quán chiếu như vậy thì mới giữ tâm vững vàng, an trụ nơi Tứ niệm xứ, không lay động trước mọi biến động của cảnh trần. Bởi cội nguồn của loạn động phiền não cũng từ nơi căn tiếp xúc với trần khả ái rồi sinh tâm vọng tưởng dính mắc. Nếu ‘chuyên nhất tâm mình, không chạy theo âm thanh hình sắc, khéo thu nhiếp tất cả tâm pháp, trụ nơi thân, thọ, tâm, pháp niệm xứ’ thì chắc chắn sẽ thành tựu được ‘chánh trí, chánh niệm, điều phục tham ưu thế gian’”.
Sau khi phát khởi tâm xả thân bố thí thì bước kế tiếp là tu tập 6 tâm thái viễn hành để đưa hành giả đến quả vị giác ngộ. Sáu tâm thái viễn hành này đôi khi còn được gọi là 6 pháp viên mãn hay 6 pháp hạnhba-la-mật; đó là bố thí, đạo hạnh, kiên nhẫn, hỷ tấn, định tĩnh và trí tuệ. Tu tập bố thí, đạo hạnh và kiên nhẫn sẽ trực tiếp đem lại lợi lạc cho chúng sinh ngay trong hiện tại. Nhưng mục đích cứu cánh của việc tu tập 6 tâm thái viễn hành là chứng đạt được trí tuệ trực giác được không tánh của các pháp. Nhờ trí tuệ trực giác này mà chúng ta sẽ loại trừ được tất cả những tâm thái nhiễu loạn, tất cả những cấu uế, những mê ám trong dòng chảy tâm thức và đạt được quả vị Chánh Đẳng Giác của chư Phật. Đến giai đoạn này thì năng lực cứu độ của chúng ta đã phát triển đến chỗ mỹ mãn.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (Long An) vào ngày 16/09/2016
Duy trì và phát triển tông phong hệ phái là trách nhiệm chung của Tăng Ni trong Hệ phái Khất sĩ, không riêng gì trụ trì. Tuy nhiên, trụ trì là người lãnh trách nhiệm quan trọng nhất. Trụ trì là người điều hành, hướng dẫn Tăng (Ni) và Phật tử sinh hoạt tu học tại trú xứ của mình. Trụ trì còn là người quyết định mọi hoạt động đối nội, đối ngoại, chịu trách nhiệm về sự hưng thịnh hay suy vong của ngôi đạo tràng mình đang quản lý. Trong thực tế, không phải vị trụ trì nào cũng ý thức một cách sâu sắc vấn đề này. Vì vậy trong khóa Bồi dưỡng kinh nghiệm trụ trì này chúng tôi xin trình bày một cách tổng quát trách nhiệm của vị trụ trì đối với sự tồn tại và phát triển của Hệ phái. Đối tượng chúng tôi nhắm đến là các huynh đệ trụ trì trẻ hoặc dự bị trụ trì trong tương lai. Do thời lượng có hạn nên chúng tôi chỉ trình bày phần tổng quát, không đi sâu vào những chi tiết như chủ đề khóa bồi dưỡng đề ra. Những chi tiết này sẽ do chư Tôn đức khác trình bày trong các bài thuyết trình của mình.
Duy trì và phát triển tông phong hệ phái là trách nhiệm chung của Tăng Ni trong Hệ phái Khất sĩ, không riêng gì trụ trì. Tuy nhiên, trụ trì là người lãnh trách nhiệm quan trọng nhất. Trụ trì là người điều hành, hướng dẫn Tăng (Ni) và Phật tử sinh hoạt tu học tại trú xứ của mình. Trụ trì còn là người quyết định mọi hoạt động đối nội, đối ngoại, chịu trách nhiệm về sự hưng thịnh hay suy vong của ngôi đạo tràng mình đang quản lý. Trong thực tế, không phải vị trụ trì nào cũng ý thức một cách sâu sắc vấn đề này. Vì vậy trong khóa Bồi dưỡng kinh nghiệm trụ trì này chúng tôi xin trình bày một cách tổng quát trách nhiệm của vị trụ trì đối với sự tồn tại và phát triển của Hệ phái. Đối tượng chúng tôi nhắm đến là các huynh đệ trụ trì trẻ hoặc dự bị trụ trì trong tương lai. Do thời lượng có hạn nên chúng tôi chỉ trình bày phần tổng quát, không đi sâu vào những chi tiết như chủ đề khóa bồi dưỡng đề ra. Những chi tiết này sẽ do chư Tôn đức khác trình bày trong các bài thuyết trình của mình.
Hiện nay Hệ phái nói riêng và Giáo hội nói chung rất cần sự đóng góp của nhiều Tăng Ni trẻ có năng lực và tâm huyết. Nếu không có sự đóng góp chung bằng tâm lực, trí lực và tài lực của nhiều người thì Phật sự rất khó thành công. Hiện nay, Hệ phái đang trên đà phát triển, có nhiều Phật sự cần phải làm và hoàn thiện. Cần có nhiều Tăng Ni trẻ giàu lòng nhiệt huyết, có trình độ và tâm huyết dấn thân học hỏi, cống hiến để tự hoàn thiện bản thân và góp phần cho sự hưng thịnh của Giáo pháp. Chư Tôn đức trụ trì cân nhắc việc nào nên giao cho đệ tử để vừa phát huy sở trường của từng vị và cũng không hoang phí thời gian đào tạo một vị sau một thời gian dài đào tạo.
Hiện nay Hệ phái nói riêng và Giáo hội nói chung rất cần sự đóng góp của nhiều Tăng Ni trẻ có năng lực và tâm huyết. Nếu không có sự đóng góp chung bằng tâm lực, trí lực và tài lực của nhiều người thì Phật sự rất khó thành công. Hiện nay, Hệ phái đang trên đà phát triển, có nhiều Phật sự cần phải làm và hoàn thiện. Cần có nhiều Tăng Ni trẻ giàu lòng nhiệt huyết, có trình độ và tâm huyết dấn thân học hỏi, cống hiến để tự hoàn thiện bản thân và góp phần cho sự hưng thịnh của Giáo pháp. Chư Tôn đức trụ trì cân nhắc việc nào nên giao cho đệ tử để vừa phát huy sở trường của từng vị và cũng không hoang phí thời gian đào tạo một vị sau một thời gian dài đào tạo.
Có câu nói: “Chiếc áo không làm nên thầy tu, nhưng thầy tu không thể thiếu chiếc áo”. Câu này đủ nói lên pháp phục rất cần cho người tu sĩ, cần cho những người đang bước trên đường giải thoát. Thái tử Tất-đạt-đa khi xưa lúc rời khỏi hoàng cung, Ngài đã đổi bộ y phục vương giả lấy bộ y phục tu sĩ mà người thợ săn đang khoác, ngụy trang cho hợp với người đi tầm đạo. Sau khi giác ngộ chơn lý, trên bước đường hành đạo độ sanh, Đức Phật đã từng nhặt mảnh vải bó tử thi giặt sạch làm y phục. Y phục lúc bấy giờ chỉ đơn giản là che thân đậy bệnh, chứ không phải là pháp phục hay lễ phục để phân định giới phẩm người xuất gia như hiện nay.
Bài giảng Khóa Bồi dưỡng Trụ trì của Hệ phái tổ chức tại PV.Minh Đăng Quang từ ngày 18-24/4/Kỷ Hợi
Bài giảng Khóa Bồi dưỡng Trụ trì của Hệ phái tổ chức tại PV.Minh Đăng Quang từ ngày 18-24/4/Kỷ Hợi
Sáng 22-5 (nhằm 18-4 ÂL) tại Pháp viện Minh Đăng Quang (số 505 xa lộ Hà Nội, Q.2, TP.HCM) diễn ra lễ khai mạc khoá bồi dưỡng trụ trì năm 2019 cho hơn 300 Tăng Ni Hệ phái Khất sĩ đến từ 6 giáo đoàn về tham dự. Chứng minh buổi lễ có HT.Thích Giác Tường, UVTT HĐCM; HT.Thích Giác Giới, Phó Thư ký HĐCM; HT.Thích Giác Ngộ, Thành viên HĐCM; HT.Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch HĐTS cùng chư tôn đức Hoà thương, Thượng toạ thành viên HĐTS, BTS Phật giáo TP.HCM, giáo phẩm chứng minh hệ phái cùng chư tôn đức Tăng Ni 6 giáo đoàn thuôc Hệ phái Khất sĩ từ các tỉnh về tham dự khóa bồi dưỡng.
Buổi trò chuyện chất lượng cuộc sống.
Giảng tại Pháp viện Minh Đăng Quang, ngày 29 tháng 6 năm Đinh Dậu.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân vào ngày 21 tháng 3 năm 2018
Giáo lý từ bi cho chúng bài học về nhân quả sâu sắc. Cũng từ đó chúng ta học được bài học vô ngã và có hành động yêu thương để cuộc sống này hài hòa, tươi sáng và tốt đẹp. Thiết nghĩ rằng các nền giáo dục, các triết thuyết hay tôn giáo phải dạy tinh thần bao dung và yêu thương như là tiếng nói đầu tiên tối cần thiết để con người hiểu và sống được an lành hạnh phúc. Bắt đầu bằng mỗi cá nhân, hãy chế tác năng lượng yêu thương từ giây phút này để góp phần lành mạnh hóa bản thân và xã hội. Đối với Phật giáo, thực hiện lí tưởng Bồ Tát để chia sẻ và giúp đỡ mọi người là con đường thứ nhất thực hiện tinh thần từ bi; con đường thứ hai là con đường của Alahan luôn chế tác năng lượng từ bi một cách âm thầm lặng lẽ như luồng gió mát thổi nhẹ vào đời.
Hành trình tu tiến từng bước này giúp cho chúng ta có thể nhìn quán xuyến toàn bộ tiến trình của tâm thức, từ trạng thái u mê đến trạng thái giác ngộ. Tiến trình này bắt đầu với những thứ lớp được trình bày rất rõ ràng để từng bước nhận thức giáo pháp. Nếu chúng ta thuộc nằm lòng mỗi bước đi này thì mỗi khi nghe thuyết giảng giáo pháp chúng ta sẽ nhận biết được giáo pháp đó thuộc về cấp độ nào của tiến trình và nên áp dụng như thế nào. Nhờ hiểu biết các pháp tu trong từng cấp độ khác nhau của tiến trình từ mê đến giác chúng ta sẽ nhận thức được rằng không hề có mâu thuẫn trong giáo pháp của Đức Phật. Tất cả giáo pháp chúng ta đều có thể tu tập để đạt được trạng thái giác ngộ. Nhận thức được như vậy chúng ta sẽ tránh được một tội lỗi lớn là phê phán, chỉ trích một truyền thống hay một pháp môn tu tập nào đó. Sau đây chúng ta sẽ tóm tắt hành trình từng bước đến giác ngộ.
Bài giảng tại Việt Nam Quốc Tự vào ngày 20/11/2016 (nhằm 21/10/Bính Thân)
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Quang (Tp.Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 08/03/2017
Quán sát biết con người thực của mình rồi thì bớt lần tánh xấu, việc ác và nhân rộng tánh tốt, việc thiện. Và khi Phật tử nuôi con người phước đức và trí tuệ lớn lên thì các phước khác sanh ra là tâm chúng ta được yên tĩnh, sức khỏe tốt, của cải theo đó phát triển, bạn bè tốt nhiều thêm. Con người thực của quá khứ dẫn đến con người hiện tại và hướng đến tương lai theo chiều hướng thiện, để đạt đến đỉnh cao giới, định, tuệ.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Bình (Q.2) vào ngày 04/04/2019 (nhằm 30/2/Kỷ Hợi)
Bốn sự thật cao thượng là hình thức nhờ đó mà cốt lõi của giáo pháp được miêu tả. Hai sự thật đầu miêu tả chính xác tình cảnh hiện tại của chúng ta; hai sự thật sau đó trình bày một phương cách thực tiễn để cải thiện tình cảnh đó. Đối với bốn sự thật cao thượng, không nhất thiết là chúng ta phải có một niềm tin mang tính chất huyền bí để có thể chấp nhận chúng, mà qua kinh nghiệm của tự thân mỗi người, chúng ta cũng có thể phán định và nhận chân được giá trị thật sự của những sự thật đó. Bốn sự thật có ý nghĩa cao thượng bởi vì đây là những sự thật mà những vị cao khiết và thượng trí dựa vào thực chứng của bản thân về thực tại trình bày ra. Đồng thời, nhờ vào trí hiểu biết bốn sự thật, chúng ta sẽ trở nên cao khiết và thượng trí. Chúng là những sự thật vì chúng là những điều có thật và chính xác là như vậy. Những thực tế này không hề lừa dối chúng ta hay đưa chúng ta rời xa hạnh phúc.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Tiền Giang) vào ngày 08/05/2017
Bạch Thế Tôn, trong những ngày xưa, những ngày xa xưa, nhân đêm trăng rằm Bố-tát (Uposatha), trong tháng nhập cư mùa mưa, toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, xung quanh có Đại thiên chúng ngồi khắp mọi phía; tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi. Đại vương Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương), vua ở phương Đông, ngồi xây mặt hướng Tây, trước mặt Thiên chúng. Đại vương Virùlhaka (Tăng Trưởng thiên vương), vua ở phương Nam, ngồi xây mặt hướng Bắc, trước mặt Thiên chúng. Đại vương Virùpakkha (Quảng Mục Thiên vương), vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng Đông, trước mặt Thiên chúng. Đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn Thiên vương), vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mạt Thiên chúng. Bạch Thế Tôn, khi nào toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiênngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, xung quanh có Đại thiênchúng ngồi khắp mọi phía và tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi, như vậy là thứ tự các chỗ ngồi của các vị này, rồi đến chỗ ngồi của chúng con. Bạch Thế Tôn, chư Thiên nào trước sống phạm hạnh theo Thế Tôn và nay mới sanh lên cõi Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa chư Thiên khác về thân sắc và danh tiếng. Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đẹp lòng, thoải mái, hoan hỷ sanh: Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt.
Theo đạo Phật thì cái ý của chúng ta là kẻ tạo tác cũng là nguồn cội làm phát sinh ra những niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Điều này có ý nghĩa rất thâm sâu: Vì chính mỗi người chúng ta điều khiển cái ý hướng riêng của bản thân mình cho nên chung cuộc chúng ta phải chịu tránh nhiệm đối với những vui buồn do cái ý của chúng ta đem lại. Không có cơ sở nào để đổ lỗi cho người khác về những khốn khổ mà chúng ta gặp phải khi chính ý lực hay ý hướng của chúng ta là nguồn gốc của những khốn khổ đó. Tương tự như vậy muốn có được hạnh phúc, chúng ta không cần phải cầu vái, phỉnh nịnh một ai ở bên ngoài cả mà chúng ta phải tạo nên nguồn cội của hạnh phúc bên trong bản thân mình bằng cách phát huy những ý tưởng lành mạnh.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (Long An) vào ngày 18/03/2016
Tìm về trong ký ức/ Lời ca dao mẹ ru/ Những đêm dài thao thức/ Ôi! Tình mẹ thiên thu. 2 Dòng sữa mẹ ngày xưa/ Dòng sữa hiền và ngọt/ Từng giọt nuôi con lớn/ Thấm đậm cả tâm hồn. 3 Ấp ủ con trong lòng/ Tình mẹ như dòng sông/ Tình mẹ như biển lớn/ Những nụ hôn ấm nồng. 4  Ánh mắt mẹ dịu hiền/ Nhìn con rồi hôn con/ Ánh mắt mẹ nhiệm huyền/ Truyền sức sống, niềm tin. 5  Mẹ âu yếm hôn con/ Cục cưng vàng con nhé! Mau lớn lên cho mẹ/ Nụ cười… đẹp đời con. 6 Đường trần muôn vạn lối/ Những bước đi phù vân/ Mẹ ơi! Hình bóng mẹ/ Sáng lung linh trong ngần!
Một vị đạo sư đang sống có thể làm được những điều mà một quyển sách không thể làm như trả lời câu hỏi của chúng ta; nêu gương tinh tấn trong việc hành trì theo giáo pháp bằng chính đời sống cụ thểhằng ngày; khích lệ và tạo hưng phấn cho chúng ta trên con đường đạo; và điều chỉnh những lệch lạc trong hành vi và trong quan niệm của chúng ta. Sách vở có thể làm phong phú thêm và mở rộng ra những điều gì mà chúng ta đã học từ nơi vị đạo sư nhưng những mối quan hệ tâm linh giữa chúng tavới những bậc hiền trí trên con đường đạo thì sách vở không thể thay thế được.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Tiền Giang) vào ngày 09/01/Nhâm Thìn
Ta bà ngàn kiếp mây bay/ Đời con trầm luân mộng ảo/ Bây giờ đời con vui sống/ Hành trang - có Phật trong lòng. Sáng nay lên chùa dự lễ/ Mừng ngày Phật đản tháng Tư/ Ngày Rằm thiêng liêng lịch sử/ Phật về trên đỉnh chơn như.  
Cốt lõi của những lời Đức Phật dạy có thể được diễn giải như sau: "Hãy giúp ích cho tha nhân. Nếu bạn không có khả năng giúp ích cho người khác thì ít nhất là bạn không làm gì gây tổn hại cho người khác." Những hành động tổn hại không những gây bất ổn cho sự khang lạc của người khác mà còn tạo nên những tập khí xấu xa khiến cho chúng ta phải chịu những điều bất hạnh trong tương lai. Những hành động lợi ích sẽ làm cho tha nhân có nhiều hạnh phúc hơn đồng thời giúp cho chúng ta có nhiều an lạc hơn trong tương lai.
Bài giảng tại tịnh xá Mỹ Đức (Tiền Giang) vào ngày 05/04/2017
Bài giảng tại chùa Phổ Quang vào ngày 12/09/2010 Mở đầu bài giảng, Hòa thượng nêu rõ : nhân quả là nội dung căn bản trong giáo lý của đạo Phật. Là người đệ tử Phật, hãy luôn quán xét và tu tập theo luật nhân quả. Từ việc phân tích, giảng giải một số đoạn trích trong kinh Phật, từ một số dẫn chứng trong thực tế, Hòa thượng nhấn mạnh ý nghĩa của việc nắm vững và vận dụng quy luật nhân quả trong đời sống và trong tu tập (luôn trau dồi thân, khẩu, ý thiện lành để tạo nhân tốt; chấp nhận những quả xấu đã tạo trong quá khứ với tâm an định). Hòa thượng nêu ra một số ví dụ để Phật tử ứng dụng qui luật nhân quả trong đời sống và trong tu tập.  
Nếu đã có gia đình mà chỉ nghĩ đến tình cảm và niềm vui thú riêng của bản thân mình thì không đủ. Bạn còn có một nhiệm vụ thiêng liêng là nghĩ đến những đứa con. Nếu bạn ly dị thì con của bạn bắt đầu phải đau khổ, đó không phải là một nỗi đau khổ nhất thời phút chốc mà là một nỗi đau khổ cho đến hết đời này. Người con lấy mẫu cuộc đời này từ cha mẹ. Nếu cha mẹ thường xuyêntranh chấp với nhau và cuối cùng là ly dị thì tôi nghĩ rằng một cách vô thức, trong tận cùng sâu thẳm, tâm hồn của người con bị ảnh hưởng tồi tệ và mang những vết hằn đen tối. Quả là thảm kịch của cuộc đời. Vì vậy mà tôi có lời khuyên: muốn có một hôn nhân đích thực thì nên từ từ, trải qua từng giai đoạn trước hôn nhân một cách thận trọng và chỉ lấy nhau khi đã đạt được một sự hiểu biết thích đáng đối với nhau, khi đó thì bạn sẽ có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Hạnh phúc trong gia đình sẽ dẫn đến hạnh phúc trên thế giới.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Tiền Giang) vào ngày 08/04/Nhâm Thìn
Bài giảng tại đạo tràng Chùa Phổ Quang (Q.Tân Bình) vào ngày 25/07/2010. Hòa thượng đặt vấn đề bằng cách dẫn lời Phật dạy: người tu là người biết nhẫn nhục, nhịn nhường. Nhẫn là một trong sáu hạnh của Bồ tát. Đức Phật, trong vô lượng kiếp, đã từng tu hạnh thập nhẫn.Thực hành được hạnh nhẫn, sẽ vượt qua được những đau khổ trong cuộc sống, và đem đến cho người niềm an vui từ sự hỷ xả. Trước sự xúc phạm của người khác, hãy quán  nhân- duyên- quả, quán vô thường, thấy được sự vô minh ở người. Từ đó, thay vì sân hận (sẽ dẫn đến nghiệp xấu, dẫn đến oán cừu), chuyển thành tình thương, lòng bao dung trùm khắp. Được như vậy, sẽ thấy nhẹ lòng (nhẫn mà không nhục) Trong bài giảng, Hòa thượng cũng luôn chú ý đến việc sách tấn Phật tử tinh tấn tu học mỗi ngày: trân trọng từng thời khắc tu học, cảm nhận sâu ý pháp, ứng dụng tu tập.  
Tạo nên mối quan hệ có tính chất xây dựng đối với những người đồng nghiệp là thực hành Chánh pháp. Điều này thử thách chúng ta trong việc thực hiện việc Chánh pháp hóa tâm hồn: Chánh pháp không chỉ là một mớ hiểu biết suông mà là một bộ phận trong tính cách của chúng ta. Điều này không những làm cho chúng ta tiến bộ mà còn giúp cho những mối quan hệ mà chúng ta hiện có trở nên hòa hợp và thân thiện hơn.
Cuộc sống của con người ở thế gian này không ai định trước mình sẽ sống bao lâu? Một năm? Hai năm? Mười năm? Hai chục năm? Bảy chục năm? Chín chục năm? Hay trăm tuổi? Dù cuộc sống có thọ bao lâu chăng nữa, thì con người vẫn không thoát được hai chữ "Họa Phước" trong đời. Tại sao? Bởi con người sinh ra ở đời này đều thiếu phước báo đủ, để có được một đời sống hoàn toàn mãn nguyện, nguyên nhân là do họ đã tạo Nghiệp từ quan niệm, hành vi, tư tưởng, lời nói qua lối sống trong nhiều đời quá khứ lẫn đời hiện tại. Do chính mình đã tạo ra Nhân, đến khi nào hội đủ Duyên, thì Nhân xưa sẽ trổ Quả, Quả ấy vận vào chính mình để mình phải chịu Họa Duyên hay hưởng Phước Duyên.
Bạn bè của chúng ta ảnh hưởng đến chúng ta rất nhiều. Vì vậy việc chọn bạn để kết giao sẽ quyết địnhđến sự tiến bộ của chúng ta. Qua kinh nghiệm của chính bản thân, chúng ta có thể thấy được mức độ tác động của bạn bè đối với chúng ta như thế nào: Hãy nhớ lại những thời gian mà chúng ta bị rơi vào tình trạng rối khổ và chiêm nghiệm xem những lúc ấy do chúng ta kết thân với những người bạn không xứng đáng nên đã chuốc lấy những chuyện rối khổ đó như thế nào. Tương tự như vậy, hãy nhìn lại những hạnh phúc và những hiểu biết mà chúng ta có được do sự thân cận của chúng ta với những người bạn có lòng.
Bài giảng tại đạo tràng tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh)
Tích đức từ lời nói Lời nói cần phải thể hiện sự khoan dung độ lượng đối với người khác. Lời nói thẳng: Có thể chuyển sang cách nói “vòng, nói giảm, nói tránh” một chút.Lời nói lạnh như băng: Hãy hâm nóng lên một chút trước khi nói. Lời nói phê bình người khác: Trước khi nói hãy chú ý cân nhắc đến lòng tự tôn của người nghe. Một lời khen ngợi đúng lúc có giá trị ngàn vàng.
Tác phẩm "Thuần Hoá Tâm Hồn" hay "Cẩm Nang Đạo Đức Hằng Ngày của Người Phật Tử" do Tỷ-kheo-ni Thupten Chodron biên soạn mang tựa đề "Taming the Monkey Mind" đã được đánh giálà quyển sách dành cho tất cả mọi người muốn hiểu sâu sắc tâmhồn của mình. Tất cả các sự vật có mặt trên trần gian này đều do tâm thức của chúng ta tạo tác ra. Tâm thức của chúng ta là vô tận, vô biên và vô lượng. Trở về nguồn cội uyên nguyên của tâm thức có nghĩa là nhận ra được bản chất của chân như tánh.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối quan hệ thiêng liêngnhất, quý giá nhất vì chính nhờ vào tình thương của cha mẹ mà con cái được sinh ra và lớn khôn. Đây là một trong những mối quan hệ có nhiều biến chuyển, nhiều thay đổi nhất vì mối quan hệ này trải qua một thời gian rất dài, trong khoảng thời gian đó, người cha, người mẹ và những người con đã sống qua nhiều giai đoạn khác nhau của một đời người. Vì vậy cả hai phía đều phải nhạy bén đối với những biến chuyển đang xảy ra trong người thân của mình để chấp nhận và ủng hộ.
Năm căn là nền tảng có khả năng sản sinh ra và, làm tăng thượng các thiện nghiệp, thì năm lực chính là sức mạnh để chận đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền não bất thiện và, tác dụng các khả năng tăng thượng các pháp lành. Như những trình bày ở trên, Ngũ căn và Ngũ lực vừa là những nền tảng căn bản phát sinh các thiện pháp và, làm tăng thượng vô lượng công đức thù thắng đưa hành giả đến Thánh đạo, vừa có khả năng chận đứng tiêu diệt các pháp ác bất thiện vô minh, giải thoát mọi thứ phiền não mà đạt Niết bàn an vui; chúng là những nền tảng cơ bản để hành giả làm nhân tư lương tốt trong việc thực hiện giải thoát đưa về Thánh đạo.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Mỹ (Tiền Giang) vào ngày 13/08/2014
Chướng ngại chính cản trở sự thành công trong hành thiền và phát tuệ giải thoát thường có dạng của một trong năm loại triền cái. Toàn thể pháp hành đưa đến Giác ngộ có thể được diễn tảnhư một nỗ lực để vượt qua năm chướng ngại nầy, đầu tiên là tạm thời đè nén chúng để đắc Thiền-na và phát tuệ minh sát, rồi dần dần chế ngự chúng một cách vĩnh viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Đạo. Năm chướng ngại đó là gì? Đó là: tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và hoài nghi.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Tiền Giang) vào ngày 08/10/2017
Tức là 4 pháp Tăng ích: 1. Cư trú tại xứ thích đáng ở chỗ có điều kiện làm thiện. 2. Thân cận bậc chân nhân gần gũi với bậc hiền trí. 3. Tự lập trường chân chánh hướng mình theo lẽ chánh. 4. Từng tạo phước làm phước để sẵn đó. Bốn điều này cũng được gọi là bốn pháp tăng ích, tức là bốn hạnh đức tạo ra nhiều lợi ích tiến hóa.
Xưa nay hay lẽ khuyết tròn, Khen chê, xấu tôtvis von miệng đời, Mấy ai suy ngẫm mười mươi, Tốt xấu tiềm ẩn thời thời khó phân, Thông thường tương ứng quả nhân, Trong ngoài đều xấu, khuyết phần đương nhiên, Hoặc là điều tốt hiện tiền, Ngoài trong cân xứng, phước duyên nối vần, Dòng đời cũng lắm phù vân, Ba chìm bảy nổi, phong trần éo le! Ngoài tròn, trong khuyết ủ ê, Sớm khen, tối lại trách chê lắm điều, Ngược lại, ngoài khuyết buồn hiu, Nhưng trong lòng ẩn chứa nhiều hy sinh! Mẹ cha, bằng hữu, đệ huynh, Xưa nay vô lượng ân tình sẻ chia, Khuyết tròn, tròn khuyết sơn khê, Nghĩa nhân đầy đặn đi về tháng năm, Mỗi người có ánh trăng rằm, Tự soi, tự chiếu đức tâm rạng ngời! Long lanh, hiền đẹp tuyệt vời, Khéo tu, khéo dưỡng khuyết rồi đi qua, Đến khi lẽ trọn thăng hoa, Tướng tánh an tịnh, chan hoà ngoài trong, Nữ nam, già trẻ tuơi hồng, Khuyết Mà Tròn, pháp tịnh không nhiệm màu!
Bài giảng tại Chùa Bửu Lâm (Tiền Giang) vào ngày 14/09/2013
Kiếp người nào có bao lâu Nắng mưa thôi cũng dãi dầu cỏ hoa! Lầu sương nhạt ánh trăng tà, Hoàng lương một giấc tỉnh ra ngỡ ngàng! Chi bằng về cõi Liên Bang, Sen khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm. Trời giải thoát, cảnh thậm thâm, An vui muôn kiếp tuyệt lầm lỗi xưa, Chỉ câu niệm Phật đừng thưa, Chỉ bền tin nguyện tam thừa bước lên. Đài vàng sẵn đã ghi tên, Cơ duyên sẵn đợi một nền đạo tâm.
Dầu tại bãi chiến trường, Thắng hàng ngàn quân địch, Tự thắng mình tốt hơn, Thật chiến thắng tối thượng.     (Kinh Pháp Cú, phẩm Ngàn)
Thân trong sạch ấy là xứ Phật/ Miệng trong sạch ấy là pháp Phật/ Ý trong sạch ấy là con Phật/ Tâm trong sạch tức là Đức Phật.
Bài giảng tại Chùa Chánh Kiến (Bạc Liêu) vào ngày 09/08/Ất Mùi
Bài giảng tại tịnh xá Mỹ Đức (Tp.Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 06/10/2016
Lời Phật dạy thật rõ ràng. Vì tâm còn kiết sử phiền não, vọng động dấy khởi tham ái nên chúng ta bị ma trói buộc không thể giải thoát. Nếu tâm an trú chánh niệm không vọng động, tâm giác tỉnh chiếu soi phiền não quyết không dính mắc thì hành giả ra khỏi sanh tử. Trói hay mở là do tâm. Tu tâm chính là giữ tâm không động (Định), không dính mắc phiền não (Tuệ). Theo kinh nghiệm của Thế Tôn, người tu mà có Chỉ, có Quán hay có Định, có Tuệ thì thành tựu giải thoát, đây chính là điều mà các Tỳ-kheo cần phải học. Thế Tôn luôn cảnh tỉnh “Các Tỳ-kheo, nên cầu phương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ nhàn vắng. Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma” và khuyến tấn “Các Tỳ-kheo! Nên học như vầy: không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma”. Những lời dạy tha thiết ấy trải qua mấy ngàn năm vẫn luôn đồng vọng, nhắc chúng ta tu tập Giới-Định-Tuệ nhằm thoát khỏi trói buộc của ma, thành tựu giải thoát.
Bài giảng tại Ni viện Long Hoa (Long Trạch, Cần Đước, Long An) vào ngày 10/5/Ất Mùi
Bài giảng tại chùa Chánh Kiến (Bạc Liêu) vào ngày 09/05/Bính Thân
Tây phương Tịnh độ được tắm ao thất bảo. Tắm ao thất bảo này để trừ thất bất khả tỵ (bảy việc không thể tránh khỏi) như : 1/ Sanh (theo nghiệp lành dữ), 2/ Già (tuổi lần xế chiều), 3/ Bịnh, 4/ Chết, 5/ Tội (khổ quả tội nghiệp), 6/ Phước (khổ quả thiện nghiệp), 7/ Nhơn duyên (hòa hợp sanh ra, họa phước giàu nghèo). Ngoài ra còn có hương ngũ phận, lưu ly có đất sáng ngần, ma ni có nước trong ngần chảy quanh, thất trân có 7 lớp thành, 7 hàng cây báu 7 hàng lưới châu, có ngân các có kim lầu, có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe; Nghe rồi tỏ đạo bồ đề các ông Bồ tát bạn lành với ta. Do đó ta thấy rằng cõi chúng ta ở là Ta bà đầy cảnh khổ đau, dầu có phước đức như thế nào đi nữa thì cũng không thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử.
Trong hiện đời này, chúng ta phát tâm Bồ-đề hành Bồ-tát đạo nhằm mục tiêu xây dựng tương lai tươi sáng trong Phật pháp, hoặc xây dựng con đường đi về Tịnh độ của chư Phật, hay về Niết-bàn. Còn chúng ta xây dựng tương lai ở trần gian trong cuộc đời giả tạm này thì có sanh có diệt, chúng ta làm gì thì cuối cùng cũng hoàn không. Vì vậy, chúng ta không bận tâm đến xây dựng tương lai trong cuộc đời, mà lo xây dựng tương lai trong Phật pháp và nếu chúng ta thành công, tạo được tương lai tươi sáng trong Phật pháp thì cuộc đời này cũng sẽ tốt đẹp theo, vì chánh báo của chúng ta ở đâu thì y báo ở đó. Cho nên, lo xây dựng tương lai là xây dựng chánh báo, vì chánh báo xấu thì y báo không thể tốt đẹp.
Bài giàng đầu Xuân tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh)
Bài giảng tại Chùa Chánh Kiến (Bạc Liêu) vào ngày 19/5/Đinh Dậu
Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này, cuả bậc Hữu học. Thế nào là năm? Tín lực, tàm lực, quý lực, tinh tấn lực, tuệ lực. Này các Tỷ-kheo, có năm sức mạnh này của bậc hữu học.
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Tp.Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 08/08/2008
Bài giảng tại Chùa Vô Ưu (Q.Tân Bình) vào ngày 26/02/Bính Thân
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh)
Bài giảng tại chùa Chánh Kiến (Bạc Liêu) vào ngày 19/10/Mậu Tuất
Bài giảng tại chùa Linh Phước (Tiền Giang) vào ngày 14/1/2017
Bài giảng tại Thiền viện Minh Quang (USA) vào ngày 25/10/2015
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 20/10/2013 (nhằm 16/09/Quý Tỵ).
Ngu si không biết mình sẽ chết,  Cứ triền miên tạo nghiệp luân hồi.  Hành trang chỉ hai bàn tay trắng,  Ngu si này còn ngu si nào hơn?  Hãy khẩn thiết, tinh tấn lo tu học,  Ngay giờ đây, theo pháp Phật nhiệm mầu.  Các bậc đạo sư đều hết lòng nhắn nhủ:  Nếu không khéo hành trì Chánh pháp,  Sẽ ngu mê không tự biết chính mình. 
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Mỹ Tho) vào ngày 08/08/2013
Bài giảng tại Thiền viện Minh Quang (USA) vào ngày 25/10/2015
Bài giảng tại chùa Chánh Kiến vào ngày 09/11/Ất Mùi
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 15/09/2013 (nhằm 11/08/Quý Tỵ).
Bài giảng tại chùa Bửu Lâm (TP.Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 14/06/2014
Bài giảng tại Chùa An Lạc - San Jose, CA vào ngày 27/05/2012
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 25/8/2013 (nhằm 19/7/Quý Tỵ).
Bài giảng tại chùa Linh Sơn (Gò Công Tây, Tiền Giang) vào ngày 12/04/2018
Bài giảng tại Chùa An Lạc - San Jose, CA vào ngày 27/05/2012
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 24/3/2013 (nhằm 13/02/Quý Tỵ)
Bài giảng tại Chùa Bửu Lâm (TP.Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 14/02/2018
Bài giảng tại Chùa An Lạc - San Jose, CA vào ngày 27/05/2012
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 03/03/2013 (nhằm 22/Giêng/Quý Tỵ)
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tường (Mỹ Tho,Tiền Giang) vào ngày 08/01/2015
Bài giảng tại Chùa An Lạc - San Jose, CA vào ngày 27/05/2012
Buổi chia sẻ tại tòa soạn Báo Giác Ngộ nhân lễ Tổng kết của Ban Từ thiện Xã hội Báo Giác Ngộ
Bài giảng tại Chùa Minh Đăng (Gò Công Tây, Tiền Giang) vào ngày 28/03/2016
Bài giảng tại Chùa An Lạc - San Jose, CA vào ngày 27/05/2012
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 03/05/2015 (nhằm 15/03/Ất Mùi).
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Quang (Gò Công) vào ngày 23/01/2017
Bài giảng tại Colorado vào tháng 05/2016
Bài giảng tại chùa Phổ Quang (Q.Tân Bình) vào ngày 05/04/2015 (nhằm 17/02/Ất Mùi)
Bài giảng tại Chùa Bửu Lâm (TP.Mỹ Tho, Tiền Giang) vào ngày 14/05/2017
Đời người chớp nhoáng như lằn điển quang,  Thân người giả hợp rồi tan,   Lao xao bọt nước mơ màng chiêm bao,   Nặng mang những nghiệp trần lao,   Loanh quanh ba cõi lao xao sáu đường.  Đã sanh trong cõi vô thường,  Thì ai thoát khỏi con đường tử sanh,   Bầu trời lồng lộng cao xanh,   Xoay mưa trở nắng tan tành gió mây,   Mênh mông đất nước trời dài,   Còn đâu bể thẳm luân đầy chiều mai. 
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 09/08/2015 (nhằm 25/06/Ất Mùi)
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) vào ngày 06/06/2012
Bài giảng tại Tịnh xá Hương Thiền - Fairfax, Virginia vào ngày 01/11/2015
Bài giảng tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh)
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 14/06/2015 (nhằm 28/04/Ất Mùi)
Bài giảng tại Chùa Thiên Trường - Gò Công Tây, Tiền Giang vào ngày 18/10/Tân Mão
Bài giảng tại Tịnh xá Hương Thiền - Fairfax, Virginia vào ngày 01/11/2015
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 23/04/2017 (nhằm 27/03/Đinh Dậu).
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Tân (Tân An, Long An) vào ngày 16/10/2014
Bài giảng tại Tịnh xá Hương Thiền - Fairfax, Virginia vào ngày 01/11/2015
1 Tìm về trong ký ức/ Lời ca dao mẹ ru/ Những đêm dài thao thức/ Ôi! Tình mẹ thiên thu. 2 Dòng sữa mẹ ngày xưa/ Dòng sữa hiền và ngọt/ Từng giọt nuôi con lớn/ Thấm đậm cả tâm hồn. 3 Ấp ủ con trong lòng/ Tình mẹ như dòng sông/ Tình mẹ như biển lớn/ Những nụ hôn ấm nồng. 4  Ánh mắt mẹ dịu hiền/ Nhìn con rồi hôn con/ Ánh mắt mẹ nhiệm huyền/ Truyền sức sống, niềm tin. 5  Mẹ âu yếm hôn con/ Cục cưng vàng con nhé! Mau lớn lên cho mẹ/ Nụ cười… đẹp đời con. 6 Đường trần muôn vạn lối/ Những bước đi phù vân/ Mẹ ơi! Hình bóng mẹ/ Sáng lung linh trong ngần!
Bài giảng tại Khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 28 tại tịnh xá Ngọc Thiền từ ngày 04-11/3/Kỷ Hợi
Bài giảng tại Tịnh xá Hương Thiền - Fairfax, Virginia vào ngày 01/11/2015
Đạo Phật là con đường đi đến quả Phật giác chơn. Con đường ấy là Khất sĩ. Họ của chư Phật ba đời là Khất sĩ, Khất sĩ là lẽ thật của chúng sanh, mục đích của chúng sanh. Khất sĩ là đến với giác chơn, toàn học biết sáng tự nhiên, hết mê lầm vọng động. Khất là xin, sĩ là học, sống là xin, ai ai cũng là đang sống xin, để cho được cái học cái biết, xin sống là để cho nên cái biết, biết ấy là học, cho biết lẽ thật, để thấy ra mục đích đặng thật hành theo, cho được sự giải thoát khổ não của vô thường, và tạo nên cái ta của ta an vui bền thật, hầu tránh xa sự nô lệ không công, tham sân si vô nghĩa lý.
Bài giảng tại Chùa Quang Minh - Colorado vào ngày 15/11/2015
Hòa thượng đã chia sẻ sự liên hệ giữa giáo lý Kinh tạng A Hàm và Chơn lý của Tổ sư ngang qua ba ý pháp: - Thực hành quán Ngũ uẩn giai không để đạt đến như thật tri kiến. - Tinh thần thực hành theo đúng lời dạy của Tổ sư trong Giới, Định, Tuệ. - Đời sống đạo hạnh của chư Tỳ kheo để gieo niềm tin chánh pháp làm lợi lạc quần sanh.
Hòa thượng đã chia sẻ sự liên hệ giữa giáo lý Kinh tạng A Hàm và Chơn lý của Tổ sư ngang qua ba ý pháp: - Thực hành quán Ngũ uẩn giai không để đạt đến như thật tri kiến. - Tinh thần thực hành theo đúng lời dạy của Tổ sư trong Giới, Định, Tuệ. - Đời sống đạo hạnh của chư Tỳ kheo để gieo niềm tin chánh pháp làm lợi lạc quần sanh.
Bài giảng tại PV.Minh Đăng Quang vào ngày 4/4/2018 (nhằm 19/2/Mậu Tuất)
Bài giảng tại tịnh xá Minh Đăng Quang (Úc Châu) vào ngày 08/04/2011
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 04/08/2013 (nhằm 28/6/Quý Tỵ)
Bài giảng tại Chùa Hương Sơn, TP.Đà Nẵng vào tháng 05/2010
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang (quận Tân Bình)
Bài giảng tại chùa Xá Lợi vào ngày 24/8/2015
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 30/10/2011 (nhằm 04/10/Tân Mão)
Bài giảng tại Houston, Taxas vào ngày 25/10/2015
Bài giảng ngày thứ 3 tại Khóa tu Truyền thống Khất Sĩ lần thứ 28 tại tịnh xá Ngọc Thiền - Thác Prenn, Đà Lạt từ ngày 04-11/3/Kỷ Hợi
Mãi ham học quên tu là bước đi lệch hướng ngày nay cần nên được kịp thời đánh thức và dừng lại: “Cũng vì thế mà xưa kia người giác ngộ xuất gia là để tu, từ trong cái tu sanh ra cái học. Chớ không phải xuất gia là học, học mãi quên tu, hay chờ chết. Khi chết để tâm còn vọng động ắt phải luân hồi trở lại. Bởi ham học quên tu nên đời nay ít ai thành đạo đắc quả, mãi trơn trợt bên ngoài ít ai được vào sâu trong cái hột. Ít ai chịu nhận xét rằng: Trí huệ sanh pháp bảo đúng hơn pháp bảo sanh trí huệ mà có giới định thì mới có huệ. Và chưa có thần thông thì đâu có trí huệ, như thế hãy khoan tưởng lầm là mình đắc đạo, chứng quả chi chi hết”.
Bài giảng ngày thứ 2 tại Khóa tu Truyền thống Khất Sĩ lần thứ 28 tại tịnh xá Ngọc Thiền - Thác Prenn, Đà Lạt từ ngày 04-11/3/Kỷ Hợi
Bài giảng ngày thứ 3 tại Khóa tu Truyền thống Khất Sĩ lần thứ 28 tại tịnh xá Ngọc Thiền - Thác Prenn, Đà Lạt từ ngày 04-11/3/Kỷ Hợi
Mãi ham học quên tu là bước đi lệch hướng ngày nay cần nên được kịp thời đánh thức và dừng lại: “Cũng vì thế mà xưa kia người giác ngộ xuất gia là để tu, từ trong cái tu sanh ra cái học. Chớ không phải xuất gia là học, học mãi quên tu, hay chờ chết. Khi chết để tâm còn vọng động ắt phải luân hồi trở lại. Bởi ham học quên tu nên đời nay ít ai thành đạo đắc quả, mãi trơn trợt bên ngoài ít ai được vào sâu trong cái hột. Ít ai chịu nhận xét rằng: Trí huệ sanh pháp bảo đúng hơn pháp bảo sanh trí huệ mà có giới định thì mới có huệ. Và chưa có thần thông thì đâu có trí huệ, như thế hãy khoan tưởng lầm là mình đắc đạo, chứng quả chi chi hết”.
Bài giảng ngày thứ 2 tại Khóa tu Truyền thống Khất Sĩ lần thứ 28 tại tịnh xá Ngọc Thiền - Thác Prenn, Đà Lạt từ ngày 04-11/3/Kỷ Hợi
Bài giảng tại Chùa Hoằng Pháp
“Lấy không giận thắng giận, Lấy thiện thắng không thiện, Lấy thí thắng xan tham, Lấy chơn thắng hư ngụy.”
Bài giảng tại Chùa Phật Quốc, TP.Kent WA vào ngày 04/06/2016
Di lặc chân Di lặc/ Phân thân thiên bách ức/ Thời thời thị thời nhơn/ Thời nhơn tự bất thức.
Bài giảng tại Vô Ưu Tự vào ngày 24/09/Giáp Ngọ
Con xin lạy đấng Đại Hùng, Đức Ngài giải thoát khỏi vòng trần duyên! Cõi đời con sống đảo điên, Đau thương lắm nỗi, ưu phiền xiết bao! Áo trần con lỡ mặc vào, Nợ trần con biết ngày nào cổi ra! Cũng như đứa trẻ lìa nhà, Lạc loài, càng bước càng xa, xa vời!
Muôn pháp không thường còn/ Người sanh ắt có diệt/ Sanh tử như thủy triều/ Diệt tận, chơn phúc hiện. Thác bền, sống không bền/ Người đời ai cũng chết/ Chết mục tiêu cuộc đời/ Đúng y lời Phật dạy! Kiếp sống trong ngắn ngủi/ Chết thật là chắc chắn/ Sớm muộn xác thân này/ Trả về cho tứ đại. Nhìn xem thể phách hoại/ Xác như gỗ mục hư/ Tánh thanh tịnh chơn như/ Niết-bàn vô sanh diệt.
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 29/12/2013 (nhằm 27/11/Quý Tỵ)
Bài giảng tại Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn)
“Tự mình, làm điều ác, Tự mình làm nhiễm ô, Tự mình không làm ác, Tự mình làm thanh tịnh. Tịnh, không tịnh tự mình, Không ai thanh tịnh ai!”
Bài giảng tại Chùa Hoằng Pháp vào tháng 01/2007
“Ðiều ác tự mình làm, Tự mình sanh, mình tạo. Nghiền nát kẻ ngu si, Như kim cương, ngọc báu.”
Bài giảng tại Chùa Từ Tâm - Tacoma WA vào ngày 05/05/2016
“Dầu lợi người bao nhiêu, Chớ quên phần tư lợi, Nhờ thắng trí tư lợi. Hãy chuyên tâm lợi mình.”
Bài giảng tại Chùa Hoằng Pháp vào tháng 09/2012
Bài giảng tại Thiền viện Minh Quang (Úc Châu) vào ngày 10-02-2019
Chúng ta biết rằng Nghiệp sẽ tạo ra Quả. Khi Quả chín muồi và đủ duyên nó sẽ trổ và chúng ta sẽ là người hứng chịu những Quả đó. Chúng ta là người trồng cây tức trồng Nghiệp. Chúng ta hãy tự chọn, gây giống tròn hay méo, tốt hay xấu, thiện hay ác là quyền của chúng ta không ai ép buộc. Khi chúng ta biết rằng chính chúng ta chịu trách nhiệm về những hạnh phúc và khổ đau của chúng ta trong tương lai thì chúng ta hãy tự chọn cách sống trong hiện tại. Hãy tự sám hối những lỗi lầm xưa cũ từ nhiều đời nhiều kiếp trước. Hãy nghe lời Phật dạy tu Thân, tu Giới và tu Tâm để đời sống hiện tại được an vui và chuẫn bị cho cuộc sống tương lai (tái sanh) được như ý muốn.
Chỉ khất thực nhờ người, Đâu phải là Tỳ-kheo! Phải theo pháp toàn diện, Khất sĩ không, không đủ". "Ai vượt qua thiện ác, Chuyên sống đời phạm hạnh, Sống thẩm sát ở đời, Mới xứng danh Tỳ-kheo"  
Tất cả hành động, lời nói, ý nghĩ có tác ý đều được gọi là nghiệp. Hầu hết nghiệp được tạo tác trên cơ sở của thân, khẩu và ý. Tất nhiên, cả ba nghiệp trên đều xuất phát từ ý niệm hay còn gọi là tâm. Bạn phải chịu trách nhiệm cho những hành động của mình. Đó là luật nhân quả, một quy luật không thể phá hủy của vũ trụ. Bạn xứng đáng với mọi thứ xảy ra với bạn, dù tốt hay xấu. Bạn là người xây dựng số phận cho bạn, hạnh phúc hay đau khổ.
Bài giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo Sydney 09-10-2018
Bài giảng tại Tu viện Phật Đà vào ngày 17/09/2018
Pháp thoại giảng tại Thiền Viện Minh Quang Nam Úc vào ngày 25-12-2018
Muôn pháp không thường còn/ Người sanh ắt có diệt/ Sanh tử như thủy triều/ Diệt tận, chơn phúc hiện. Thác bền, sống không bền/ Người đời ai cũng chết/ Chết mục tiêu cuộc đời/ Đúng y lời Phật dạy! Kiếp sống trong ngắn ngủi/ Chết thật là chắc chắn/ Sớm muộn xác thân này/ Trả về cho tứ đại. Nhìn xem thể phách hoại/ Xác như gỗ mục hư/ Tánh thanh tịnh chơn như/ Niết-bàn vô sanh diệt.
Hãy tự làm cho mình, Như điều mình dạy người. Khéo tự điều, điều người, Khó thay tự điều phục !
Người đời việc ít quan trọng dồn hết tâm lực lo, việc tối quan trọng lại lơ là.  Tất cả chúng ta có mặt trên thế gian này, đều do không sáng suốt nên thường lầm lẫn, những điều không quan trọng hay ít quan trọng, chúng ta dồn hết tâm lực để lo, còn những điều tối quan trọng lại không để ý, không màng tới.
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 01/12/2013 (nhằm 29/10/Quý Tỵ)
“Nếu biết yêu tự ngã, Phải khéo bảo vệ mình, Người trí trong ba canh, Phải luôn luôn tỉnh thức.”
Bài giảng vào ngày 11/04/2011 (nhằm 08/03/Tân Mão)
Đức Thế Tôn là bậc Đại giác ngộ khai sáng đạo Phật. Ngài là một người như bao nhiêu người nhưng tự giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộấy dạy lại cho con người. Chúng ta đừng lầm lạc, khi dán sau lưng Ngài những nhãn hiệu mà chính Ngài không thừa nhận. Do đó, chúng ta không nên xem Ngài như là một vị giáo chủ của một tôn giáo thông qua sự tôn thờ Ngài bằng lòng sùng kính của một tín đồ, vì đây không phải là bản ý của Ngài. Ngài là một nhà văn hóa bởi vì ta đã nhìn Ngài bằng cặp mắt của một nhà văn hóa. Ngài là một nhà triết học bởi vì ta đã tìm hiểu Ngài qua những kiến thức triết học của ta.
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 20/07/2014 (nhằm 24/06/Giáp Ngọ).
Bài giảng tại Chùa Hoằng Pháp vào tháng 10/2010
“Có bảy xứ thiện, với ba cách quán nghĩa” thảy đều ở trong pháp này mà lậu hoặc được đoạn tận, do lậu hoặc được đoạn tận mà tâm được giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời tự mình biết rõ, tự thân chứng ngộ đầy đủ và an trụ: ‘Sự sanh của Ta đã dứt, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’
Hãy lắng nghe chính mình trong từng móng tâm động niệm, xét nét những xao xuyến, lo âu làm ta đánh mất chánh niệm, chạy theo dục lạc phù phiếm bên ngoài. 
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang, quận Tân Bình vào ngày 18/03/2012 (26/02/Nhâm Thìn).
Bài giảng tại Tịnh xá Trung Tâm, quận Bình Thạnh vào ngày 25/06/2011
Bài giảng tại Khóa tu Một ngày An lạc lần 299 - Chùa Phổ Quang, quận Tân Bình vào ngày 14/01/2015 (nhằm 04/11/Giáp Ngọ).
Bài giảng tại Chùa Vô Ưu, quận Tân Bình vào ngày 21/08/2011.
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 10/03/2013 (nhằm 29/01/Quý Tỵ).
Bài giảng tại Chùa Hòa Bình, tỉnh Trà Vinh vào ngày 04/12/Quý Tỵ
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 16/09/2012 (nhằm 01/08/Nhâm Thìn).
Bài giảng tại Tu viện Phật Đà vào ngày 05/09/2018
Bài giảng tại đạo tràng Chùa Phổ Quang vào ngày 22/06/2014 (nhằm 25/05/Giáp Ngọ).
Thượng tọa đã chia sẻ những kinh nghiệp tu tập trong cuộc sống đến với quý Phật tử tại gia
Bồ-tát Đại Thế Chí xưa/ Có ba danh hiệu kế thừa Phật ân/ Một lòng độ chúng phàm nhân/ Ánh sáng trí tuệ soi trần cảm thương/ Ta-bà thế giới mười phương/ Hữu duyên thoát khổ chơn thường tịnh không/ Đắc Đại Thế… nguyện tươi hồng/ Đại hùng, đại lực… trụ trong ta-bà/ Chúng sanh cang cường, thăng hoa/ Điều phục chuyển hướng, quy nhà từ bi/ Đại tinh tấn… thắng sân si/ Thắng phiền não… chẳng nệ gì gian nan/ Ngày đêm thường trụ đạo tràng/ Thắng giải đãi, thắng mơ màng mộng du/ Vô Biên Quang… hạnh công phu/ Tử kim chiếu diệu vàng nhu tịch trừ/ Mười phương thế giới chơn như/ Long lanh tỏ rạng đức từ hoằng dương/ Nhiệm mầu Tam thánh Tây phương/ Đức Di Đà giữa, hữu nương bóng hiền/ Tay cầm sen xanh đứng bên/ Quán Âm Bồ-tát, trái duyên tịnh bình/ Hai vị ứng hiện tướng xinh/ Nữ cư sĩ… pháp hữu tình độ sanh/ Từ bi – trí tuệ hóa thành/ Quán vô Lượng thọ… âm thanh hiển bày/ Bồ-tát ứng thân cao ngay/ Long lanh, lóng lánh Kim đài thiên quang/ Năm trăm hoa báu hàng hàng/ Đài hoa tương ứng đạo tràng hằng sa/ Mỗi đài quốc độ nở hoa/ Tử kim tịnh diệu kết tòa Quán Âm/ Phẩm kinh A Lợi cao thâm/ Ứng thân Bồ-tát, tỏa trầm huỳnh quang/ Rực rỡ ngàn sắc trắng vàng/ Phất trần óng ánh, nghiêm trang sen mầu/ Quan Âm – Thế Chí bên nhau/ Một người, một chí thượng cầu hóa thân/ Hiện đồ… thai trong giới nhân/ Mật tông xác tín nhị phần tương giao/ Viện Quan Âm sen đỏ màu/ Thân trắng biên biếc, cần cầu uy nghiêm/ Trước ngực ba ngón tay hiền/ Trì luân châu báu diệu huyền hương thơm.
Thái tử muốn vượt qua đau khổ, qua sự hiểu biết về bản chất của sinh, lão, bệnh, tử…nỗi khổ đau trên nhân gian. Nên Ông từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ và con, cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một hoàng tử. Không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già, đau ốm, một người nghèo, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh từ bỏ của một vị hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang. Quả thật, đó là một sự hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người.
Bài giảng tại Chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 17/06/2012 (nhằm 28/04/Nhâm Thìn).
Bài giảng tại Chùa Phật Quang (Bến Tre) vào ngày 19/07/2009
Bài giảng tại Chùa Phật Quang (Bến Tre) vào ngày 19/07/2009
Bài thuyết giảng tại Chùa Phổ Quang vào ngày 10/10/2010 (nhằm 03/09/Canh Dần).
Bài thuyết giảng tại Chùa Vô Ưu, quận Tân Bình, TP.HCM vào ngày 04/12/2010.
Bài giảng tối Đại lễ Tưởng niệm Tổ sư vắng bóng lần 65 tại PV.Minh Đăng Quang (Q.2)
Này chư Hiền, hoặc có một người thân hành thanh tịnh, khẩu và ý hành thanh tịnh. Nếu người có trí thấy, giả sử sanh hờn giận, phải nên trừ bỏ như thế nào? Này chư Hiền, cũng như ngoài thôn xóm không xa, có hồ nước tốt, đã trong lại ngọt, đáy sâu bằng phẳng, đầy đặn, cỏ biếc ngập bờ, bốn phía có cây cỏ. Nếu có người đến, rất nóng bức, phiền muộn, đói khát, mệt mỏi, gió nóng bức bách. Người kia đến bờ rồi, cởi áo để trên bờ, nhảy xuống hồ, khoan khoái mặc tình tắm rửa, trừ bỏ sự nóng bức, phiền muộn, đói khát, mệt mỏi. Cũng vậy, này chư Hiền, hoặc có một người thân hành thanh tịnh, khẩu và ý hành thanh tịnh, hãy thường nên nghĩ đến thân hành thanh tịnh, khẩu và ý hành thanh tịnh của người đó. Nếu người có trí thấy mà sanh hờn giận, nên trừ bỏ như vậy.
Bài giảng tại Khóa tu Phật thất lần thứ 33 tại Chùa Hoằng Pháp
Bài thuyết giảng tại Chùa Hoằng Pháp nhân Khóa tu Phật thất lần thứ 55: "Thân trong sạch ấy là xứ Phật/ Miệng trong sạch ấy là pháp Phật/ Ý trong sạch ấy là con Phật/ Tâm trong sạch tức là Đức Phật".
Pháp thoại được Thượng tọa thuyết giảng tại Chùa Hoằng Pháp vào tháng 11/2006.
Thượng tọa Minh Thành thay lời Hòa thượng Giác Toàn – Trưởng ban Giáo phẩm đọc tâm thư gửi Tăng Ni Hệ phái với 10 điều tâm quyết.
Thượng tọa Minh Thành thay lời Hòa thượng Giác Toàn – Trưởng ban Giáo phẩm đọc tâm thư gửi Tăng Ni Hệ phái với 10 điều tâm quyết.
Trong thời thuyết giảng này, Hoà thượng đã chỉ dạy cho hàng tứ chúng Tăng Ni và nam nữ Phật tử tinh thần của Tổ Thầy qua hình ảnh tìm lại chính mình. Hòa thượng đã dẫn dụ nhiều lời dạy của đức Tổ sư được lưu truyền trong bộ Chơn Lý để giúp cho đại chúng thấy được tông chỉ Nối truyền Thích-ca Chánh pháp. Qua những dẫn dụ giáo pháp ấy, Hoà thượng đã nói lên nền tảng giáo pháp khất sĩ, để từ đó định hướng cho mọi người thấy được đường hướng phát triển giáo pháp và con đường thân chứng giáo pháp ấy.
Trong thời thuyết giảng này, Hoà thượng đã chỉ dạy cho hàng tứ chúng Tăng Ni và nam nữ Phật tử tinh thần của Tổ Thầy qua hình ảnh tìm lại chính mình. Hòa thượng đã dẫn dụ nhiều lời dạy của đức Tổ sư được lưu truyền trong bộ Chơn Lý để giúp cho đại chúng thấy được tông chỉ Nối truyền Thích-ca Chánh pháp. Qua những dẫn dụ giáo pháp ấy, Hoà thượng đã nói lên nền tảng giáo pháp khất sĩ, để từ đó định hướng cho mọi người thấy được đường hướng phát triển giáo pháp và con đường thân chứng giáo pháp ấy.
Hôm nay, chư Tôn đức tổ chức buổi Tọa đàm, cùng nhau đàm luận Chơn Lý của Tổ sư, con trò chỉ thưa mấy ý trên; chư Tôn đức chứng minh, liễu tri để rồi chúng ta cùng trao đổi, cùng thọ học, cùng nghiệm ra sợi chỉ Chơn Lý Chánh pháp xuyên suốt từ đức Phật đến Tổ sư, trải qua 25 thế kỷ, Ngài đã tiếp nối thành công. Nhị Tổ Giác Chánh cũng vậy, Ngài xuất gia, ở bên cạnh Tổ sư và nguyện hành trì gương hạnh ít nói tu thiền như tất cả chúng ta đều biết. Ngày đêm tinh tấn tu học, thân tâm tập trung cho đạo pháp, cho Chánh pháp và cho chúng sanh, không chút mảy may xao động việc khác. Dù có lúc ôm bát trì bình hay ở tại trú xứ, tâm thái Ngài luôn thong dong, nhẹ nhàng. Từ các trú xứ trước đó rồi về Pháp viện, sau về Ngọc Viên, Vĩnh Long,… ngày cũng như đêm, Ngài tham thiền tĩnh tọa, đó là điểm đặc sắc của Nhị Tổ kế thừa Tổ sư vậy.
Hôm nay, chư Tôn đức tổ chức buổi Tọa đàm, cùng nhau đàm luận Chơn Lý của Tổ sư, con trò chỉ thưa mấy ý trên; chư Tôn đức chứng minh, liễu tri để rồi chúng ta cùng trao đổi, cùng thọ học, cùng nghiệm ra sợi chỉ Chơn Lý Chánh pháp xuyên suốt từ đức Phật đến Tổ sư, trải qua 25 thế kỷ, Ngài đã tiếp nối thành công. Nhị Tổ Giác Chánh cũng vậy, Ngài xuất gia, ở bên cạnh Tổ sư và nguyện hành trì gương hạnh ít nói tu thiền như tất cả chúng ta đều biết. Ngày đêm tinh tấn tu học, thân tâm tập trung cho đạo pháp, cho Chánh pháp và cho chúng sanh, không chút mảy may xao động việc khác. Dù có lúc ôm bát trì bình hay ở tại trú xứ, tâm thái Ngài luôn thong dong, nhẹ nhàng. Từ các trú xứ trước đó rồi về Pháp viện, sau về Ngọc Viên, Vĩnh Long,… ngày cũng như đêm, Ngài tham thiền tĩnh tọa, đó là điểm đặc sắc của Nhị Tổ kế thừa Tổ sư vậy.
Đại lễ Tưởng niệm trang nghiêm diễn ra hôm nay là sự thiết tha bày tỏ lòng hiếu kính đối với Tổ Thầy, đồng thời còn mang nhiều bài học ý nghĩa thiêng liêng cho tất cả nhân sinh.
Chúng tôi cũng xin thay mặt chư Tôn đức Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái chứng minh công đức của quý Phật tử đã phát tâm hộ trì Đại lễ này bằng tịnh tài, tịnh vật hay bằng sức lực, tâm huyết… Cầu nguyện Tam Bảo chứng minh công đức cho toàn thể quý liệt vị. Cầu chúc quý liệt vị tăng trưởng năm phần phước báu thanh cao: Sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ. Cầu mong cho tất cả chúng ta đầy đủ Giới Định Tuệ để tu tập thật viên mãn, đóng góp cho Phật giáo và xã hội một nền đạo đức cao thượng, một nếp sống hiền lương gương mẫu cho đời, góp phần cho Đạo pháp và Dân tộc ngày một trang nghiêm và thịnh vượng.
Minh Đăng Quang - Ánh tâm linh, Minh Đăng Quang đẹp Tam Bình Vĩnh Long. Minh Đăng Quang đẹp thiền tông, Minh Đăng Quang rạng hư không đất trời. Tổ đình dấu ấn tình người, Thanh thoát bình dị, đạo đời thanh lương. Nối truyền Chánh pháp chơn thường, Đạo đời Khất sĩ an tường tịnh không. Hậu Lộc đất Tổ ấm lòng, Vĩnh Long quê mẹ, dòng sông cội nguồn. Sáu mươi lăm năm, mạch kim cương, Sáu mươi lăm năm, đạo miên trường thiên thu.
Minh Đăng Quang - Ánh tâm linh, Minh Đăng Quang đẹp Tam Bình Vĩnh Long. Minh Đăng Quang đẹp thiền tông, Minh Đăng Quang rạng hư không đất trời. Tổ đình dấu ấn tình người, Thanh thoát bình dị, đạo đời thanh lương. Nối truyền Chánh pháp chơn thường, Đạo đời Khất sĩ an tường tịnh không. Hậu Lộc đất Tổ ấm lòng, Vĩnh Long quê mẹ, dòng sông cội nguồn. Sáu mươi lăm năm, mạch kim cương, Sáu mươi lăm năm, đạo miên trường thiên thu.
Khi nào chúng ta tuệ tri được Pháp chí thiện, nghĩa là Sơ thiện là Thánh Giới, Trung thiện là Thánh Định, Hậu thiện là Thánh Huệ, là pháp chí thiện vô thượng, tối thắng, an tịnh đạo lộ, do Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni tìm cầu, chứng đạt và công bố, nay Pháp ấy được Đức Tổ sư Minh Đăng Quang xuất gia tầm cầu, xác chứng với tâm nguyện: “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”,thì khi đó chúng ta mới thật sự là người biết ơn và đền ơn đúng pháp, đúng nghĩa nhất đối với Đức Thế Tôn và Đức Tổ Sư.
Khi nào chúng ta tuệ tri được Pháp chí thiện, nghĩa là Sơ thiện là Thánh Giới, Trung thiện là Thánh Định, Hậu thiện là Thánh Huệ, là pháp chí thiện vô thượng, tối thắng, an tịnh đạo lộ, do Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni tìm cầu, chứng đạt và công bố, nay Pháp ấy được Đức Tổ sư Minh Đăng Quang xuất gia tầm cầu, xác chứng với tâm nguyện: “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”,thì khi đó chúng ta mới thật sự là người biết ơn và đền ơn đúng pháp, đúng nghĩa nhất đối với Đức Thế Tôn và Đức Tổ Sư.
“Khi Thầy vắng về sau phải nhớ, Lấy Luật điều nâng đỡ bước chân. Các con hãy gắng chuyên cần, Luật là Thầy đó hằng gần các con. Con bỏ Luật như đòn bỏ gánh, Phương chi mà nhập Thánh siêu phàm. Con ơi vật chất đừng ham, Vun nền đạo đức càng kham khổ nhiều. Con nên nhớ những liều thuốc quí, Uống được vào khai trí phá mê. Phá mê Thầy sẽ trở về, Để con ỷ lại bỏ bê tu hành!”
“Khi Thầy vắng về sau phải nhớ, Lấy Luật điều nâng đỡ bước chân. Các con hãy gắng chuyên cần, Luật là Thầy đó hằng gần các con. Con bỏ Luật như đòn bỏ gánh, Phương chi mà nhập Thánh siêu phàm. Con ơi vật chất đừng ham, Vun nền đạo đức càng kham khổ nhiều. Con nên nhớ những liều thuốc quí, Uống được vào khai trí phá mê. Phá mê Thầy sẽ trở về, Để con ỷ lại bỏ bê tu hành!”
Pháp thoại được thuyết giảng tại Niệm Phật Đường Phổ Quang
Khoảng 3.000 Tăng Ni, Phật tử đã quang lâm về Tổ đình Minh Đăng Quang (ấp 6, xã Hậu Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) dâng nén tâm hương tưởng niệm 65 năm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng vào sáng nay, ngày 6/3/2019 (nhằm mùng 1 tháng 2 năm Kỷ Hợi).
Sáng nay, ngày 5/3/2019 (nhằm ngày 29/1 năm Kỷ Hợi), chư Tôn đức giáo phẩm HĐCM, HĐTS GHPGVN, chư Tôn đức Ban Trị sự các tỉnh thành, đã quang lâm chứng minh và dự lễ Tưởng niệm 65 năm đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng và Khánh thành Tổ đình Minh Đăng Quang (tỉnh Vĩnh Long) do chư Tôn đức giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ Việt Nam tổ chức.
Trải qua gần 1 năm nỗ lực tập hợp dữ liệu, hình ảnh và thiết kế, sáng ngày 28 tháng Giêng năm Kỷ Hợi (nhằm ngày 4/3/2019), Hệ phái Khất sĩ đã trọng thể Khánh thành Bảo Tháp Hồng Ân.
Sáng nay, 4-3 (nhằm ngày 28-1-Kỷ Hợi) tại Pháp viện Minh Đăng Quang (505 xa lộ Hà Nội, Q.2, TP.HCM) đã trang nghiêm diễn ra lễ tưởng niệm 65 năm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng (1954 - 2019).
Sáng ngày 04-03-2019 (nhằm 28/Giêng/Kỷ Hợi), nằm trong khuôn khổ Đại lễ Tưởng niệm 65 năm Tổ sư vắng bóng, hơn 800 chư Tôn đức Tăng Ni đã trang nghiêm tổ chức trì bình khất thực tái hiện lại hình ảnh chư Phật Tăng xưa.
Đại lễ Tưởng niệm 65 năm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng (1954 - 2019) và Khánh thành Tổ đình Minh Đăng Quang.
Bài giảng tại Niệm Phật Đường Cực Lạc, Houston, USA vào ngày 26/10/2015
Bài giảng tại Niệm Phật Đường Cực Lạc, Houston, USA vào ngày 26/10/2015
Pháp thoại thuyết giảng tại Chùa Phật Huệ - Bến Lức, Long An vào ngày 12/09/Giáp Ngọ.
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại chùa Phước Hậu (Úc Châu) vào ngày 09/04/2011 (nhằm 07/03/Tân Mão).
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại Thiền viện Minh Quang, Úc Châu vào tháng 04/2011.
Đề Tài " Đại Bất Hiếu Mục Kiền Liên " do TT. Giác Đăng tại Chùa Vô Ưu Q.Tân Bình ngày 26 tháng 7 năm Bính Thân (2016)
Trăm năm một kiếp con người/ Làm sao giác ngộ cuộc đời phù du/ Làm sao biết rõ cách tu/ Giải thoát nghiệp khổ… buộc từ ngàn năm?
Pháp thoại do Thượng tọa Giác Đăng thuyết giảng tại Tu Viện Phật Đà Brisbane - Australia vào ngày16/09/2018.
Thượng tọa giảng pháp thoại tại Chùa Từ Tâm (Tacoma).
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại Niệm Phật Đường - Chùa Chánh Kiến (Bạc Liêu) vào ngày 19/06/Ất Mùi.
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng Khóa tu Một ngày An lạc lần thứ 36 tại Tu viện Tường Vân vào ngày 08/12/2013 (nhằm 06/11/Quý Tỵ).
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại Tu viện Phật Đà vào ngày 14/09/2018.
Pháp thoại được Thượng tọa thuyết giảng Khóa Tu Một Ngày An Lạc lần 426 tại Chùa Phổ Quang vào ngày 03/12/2017 (nhằm 16/10/Đinh Dậu).
Pháp thoại được Thượng tọa thuyết giảng Khóa Tu Một Ngày An Lạc tại Chùa Hòa Bình, tỉnh Trà Vinh
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại Chùa Quang Minh Colorado vào tháng 05/2016
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại chùa Cổ Lâm vào ngày 05/06/2016.
Đề tài " Đêm Diễn Cuối Cùng " do Thượng tọa Giác Đăng thuyết giảng tại Chùa Vô Ưu Quận Tân Bình nhân Pháp Hội Niệm Phật lần thứ 57 ( Pháp Hội cuối năm Giáp Ngọ ), ngày 28 tháng 11 năm Giáp Ngọ.
Pháp thoại được Thượng tọa thuyết giảng tại giảng tại Tịnh xá Minh Đăng Quang (Sydney - Australia) vào ngày 13/12/2016.
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng Khóa tu Phật thất lần 75 tại Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn) 
Ta lang thang vô lượng kiếp luân hồi/ Ta đến ta đi trong vòng đời lưu chuyển/ Bóng tối đêm đen và bình minh nắng mới/ Dòng thời gian theo chu kỳ đi tới/ Mỗi sáng mỗi chiều, mỗi tháng mỗi năm.
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại Chùa Vô Ưu, Quận Tân Bình, TP.HCM
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại Chùa Hoằng Pháp nhân Khóa tu Phật thất kỳ 49
Pháp thoại: "Bình An Đến Lúc Lâm Chung" do Thượng tọa Giác Đăng thuyết giảng nhân "Khóa tu Bát Quan Trai Giới lần thứ 62" tại Chùa Bửu Quang, 353 Trần Xuân Soạn, Q.7, TP. HCM vào ngày 26/02/Bính Thân - 2016
Pháp thoại: "30 Năm Tết Của Cuộc Đời" do Thượng tọa Giác Đăng thuyết giảng Khóa tu Phật Thất lần thứ 69 từ ngày 05 đến 12/12/2011 (nhằmngày 11 đến 18-11 Tân Mão) tại Chùa Hoằng Pháp (Hóc Môn)
Cận tử nghiệp là nghiệp vừa được tạo tác ra bằng tư tưởng trước lúc sắp chết. Ý nghiệp này rất mạnh và vô cùng quan trọng vì nó quyết định hướng tái sinh, dù là hướng thiện hay hướng ác. Thông thường, tập quán nghiệp nào mạnh nhất thì sẽ sống dậy mãnh liệt nhất trước lúc chết, do đó có nhân tố mạnh quyết định nơi đầu thai. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp có sự can dự của cận tử nghiệp.
Pháp thoại do Thượng tọa giảng vào ngày 15-09-2018 tại  Tu Viện Phật Đà Brisbane - Australia .
Trời đất tinh khôi hương sắc thắm/ Non sông rạng rỡ đẹp hoa cười/ Mắt trong mắt, tay tìm tay nắm/ Lòng gặp lòng... chan chứa niềm vui.
Pháp có thể, có tướng, có dụng, có lý. Thể của pháp là cái có hình dạng. Tướng của pháp là sự khác nhau của hình dạng. Dụng của pháp là tác dụng, cử động, sanh sống ích lợi của thể tướng. Lý của pháp là sự hư nên, còn mất, có không, tốt xấu, sạch dơ, thấp cao, đen trắng. Pháp vốn là không có, bởi có chúng sanh xúc đối với vạn vật, vì tríu mê, vì khổ sở, mới có pháp, nên gọi là pháp tánh vốn không, hay gọi là bổn pháp vốn không tự tánh. Bởi chúng sanh tríu mê lăn nhào trong vạn vật, sanh pháp ác trược để phải khổ sầu; nên chư Phật mới bày ra pháp thanh thiện giải thoát khổ sầu ấy.
Nhằm chia sẻ những mất mát và thiệt hại với đồng bào bị ảnh hưởng của những đợt lũ lụt, từ ngày 30/12 – 03/01/2019, đoàn từ thiện do Thượng tọa Thích Minh Lộc – Phó trưởng Ban Từ thiện Xã hội Trung ương, Trưởng phân ban Từ thiện hệ phái Khất sĩ làm trưởng đoàn đã hướng dẫn chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử hệ phái Khất sĩ đã đến thăm, tặng tại 3 tỉnh Phú Yên – Quảng Nam và Quảng Ngãi
Với tinh thần tương thân tương ái, chia sẻ những khó khăn cùng đồng bào, thể hiện tấm lòng từ bi của những người con Phật, vào ngày 14/01/2019, đoàn từ thiện do Thượng tọa Thích Minh Lộc – Phó trưởng Ban Từ thiện Xã hội Trung ương, Trưởng phân ban Từ thiện hệ phái Khất sĩ làm trưởng đoàn đã hướng dẫn chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử Hệ phái Khất sĩ đã đến thăm, tặng 500 phần quà và 5 giếng nước cho bà con nghèo tại xã Ia Rvê, huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk.  
 “Tinh cần giữa phóng dật/ Tỉnh thức giữa quần mê/ Người trí như ngựa phi/ Bỏ sau con ngựa hèn”.
Bài giảng tại Tu viện Cát Trắng (Hoa Kỳ) nhân Khóa tu mùa thu năm 2014 Dấu xưa phiêu bạt bờ này/ Chợt nghe sông núi ngân dài biển xa/ Lênh đênh vạn nẻo phù hoa/ Một chiều dừng lại bên tà rừng thu/ Ngàn năm Cát Trắng sương mù/ Nghe âm ba vọng…ngồi ru ấm lòng. Mỗi cuộc đời mỗi dòng sông/ Dòng sông sanh tử long đong luân hồi/ Từ trong vô lượng kiếp rồi/ Ta vui, ta khổ, khóc cười… bể dâu! Nay nhân duyên nối nhịp cầu/ Tu Viện Cát Trắng nhiệm mầu dừng chân/ Ta về tìm lại Pháp Thân/ Mặc khải tâm thức, khơi lần tánh xưa/ Đất nước lửa gió đong đưa/ Huyễn thân nam nữ… sớm trưa vui buồn/ Trắng đen, thương ghét, sầu vương/ Thất tình lục dục suối nguồn trầm luân/ Thân khẩu ý trói buộc luôn/ Tham, sân, si…lão ma vương đứng đầu/ Vui buồn, mừng giận, khổ sầu/ Trùng trùng điệp điệp nối cầu oan khiên/ Vô lượng kiếp sống đảo điên/ Trầm luân biển nghiệp não phiền xưa sau/ Nay tu tỉnh giác quay đầu/ Quy Y Pháp Phật nương vào tịnh tu/ Tự mình tinh tấn công phu/ Ngày đêm vẹt phá mây mù vô minh/ Tự mình soi sáng chính mình/ Thân, khẩu, ý…sạch phá tình phàm phu/ Kinh, luật, luận… dẫn đường tu/ Giới, định, tuệ…giúp điều nhu yên bình. Tự mình nhuần rạng tâm linh/ Tam Quy, Ngũ Giới… thắng tình lìa xa/ Sát sinh, trộm cắp, dâm tà/ Nói dối, uống rượu, một nhà trầm luân/ Nay ta quyết chí thoát trần/ Tịnh hoá nghiệp tội mê tân nhiều đời/ Tham, sân, si…lắng sạch rồi/ Ác quấy tội lỗi luân hồi thoát ra/ Từ bi, hỷ xả… thăng hoa/ Thường, lạc, ngã, tịnh kết toà phạm âm/ Sáu ba la mật thậm thâm/ Chuyển phàm hoá thánh hiển tâm Bồ-đề/ Xưa thân tứ đại lầm mê/ “Hạt cát sanh tử” não nề khổ đau/ Nay thân tịnh hoá tâm giao/ “Nhất Hạnh Tam Muội” sắc màu long lanh/ Thời thời tinh tấn cao thanh/ Ngàn ngàn Cát Trắng hoá thành Sen thiêng/ Bóng mát Tam Bảo nhiệm huyền/ Tu Viện Cát Trắng tụ hiền nhân gian/ A Di Đà Phật đạo tràng. Tu Viện Cát Trắng, Mims, Florida 25/10/2014
Sáng ngày mùng 4/11/Mậu Tuất (nhằm ngày 10/12/2018), tại Tổ đình Minh Đăng Quang thuộc huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã diễn ra Lễ khai mạc khoá tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 27. Trong buổi lễ có sự quang lâm chứng minh, tham dự của Trưởng lão HT. Giác Nhường – Phó Pháp chủ HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái Khất sĩ; HT. Giác Giới – Phó Thư ký HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái Khất sĩ; HT. Giác Cầu – Thành viên HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái; HT. Giác Toàn – Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, Trưởng Ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái, Trưởng Ban Tổ chức khoá tu; HT. Giác Phùng – Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự Phó Giáo đoàn III; HT. Giác Nhân – Uỷ viên HĐTS GHPGVN, Phó Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử Trung ương, Phó Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng Ban Hoằng pháp GHPGVN tỉnh Tiền Giang, HT. Giác Minh – Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự phó Giáo đoàn II, cùng chư Tôn đức Giáo phẩm lãnh đạo các Giáo đoàn, cũng như sự có mặt của 120 vị hành giả trở về tham dự.
Ngày 02/12/2018 ( 26/10/Âl Mậu Tuất) Ni sư Thích nữ Dung Liên, Ủy viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Thuận, Phó Phân ban Ni giới Phật giáo tỉnh, Trụ trì Tịnh xá Ngọc Lương trang nghiêm tổ chức Đại lễ Khánh thành Tịnh xá Ngọc Lương ( tọa lạc dưới triền đồi cát trắng thuộc thôn Suối Nhuôm, xã Sông Lũy, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, dọc theo quốc lộ 1 A, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 40km).
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ở trong núi Kỳ-xà-quật, một mình nơi chỗ vắng thiền tịnh tư duy và nghĩ rằng: Thuở xưa, có lần Thích Đề-hoàn Nhân, ở trong hang đá núi Giới cách[9], đã hỏi Thế Tôn về nghĩa ái tận giải thoát[10]. Thế Tôn đã vì ông mà nói, nghe xong ông đã tùy hỷ. Dường như ông ấy còn muốn hỏi lại nghĩa nào đó nữa[11]. Nay ta nên đi đến hỏi về ý tùy hỷ của ông. Nghĩ như vậy rồi, trong khoảnh khắc như lực sĩ co duỗi cánh tay, Mục-kiền-liên biến khỏi núi Kỳ-xà-quật, đến cõi trời Tam thập tam và đứng không xa một cái ao Phân-đà-lợi[12] mấy. Lúc ấy, Đế Thích cùng năm trăm thể nữ đang nô đùa nơi ao tắm và có cả âm thanh mỹ diệu của các Thiên nữ. Bấy giờ Đế Thích từ xa trông thấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, liền bảo các Thiên nữ: “Đừng hát nữa! Đừng hát nữa!”
Thông điệp của Đức Bổn Sư tuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái. Tỉnh thức là hiểu rõ vị trí của cá nhân trong đời sống tập thể, sự liên hệ hỗ tương giữa mình và thế giới xung quanh. Trí tuệ là thấu suốt lý vô thường duyên sinh của vạn pháp, nhận ra và hằng sống với tự tánh bản lai. Từ bi là tình thương không  chiếm hữu, không biên giới, không chấp ngã - pháp, mang tính bình đẳng trong quan hệ giữa người với người, giữa người với vật và cả với môi trường sinh thái. Bằng thông điệp ấy, Đạo Phật đến nơi nào cũng mang lại bình an phúc lạc, như trận mưa đầu mùa sau những tháng ngày khô hạn, thấm sâu vào lòng đất tâm của mỗi người, dần dần đâm chồi nẩy lộc, rồi đơm hoa kết trái. Trong suốt chiều dài gần hai mươi sáu thế kỷ truyền bá, Đạo Phật không bao giờ dùng đến giáo quyền hay vũ lực, không bao giờ gây thù oán đau thương cho bất cứ ai, mà luôn uyển chuyển hòa hợp với phong tục tập quán bản địa, khéo léo tiếp cận hóa độ tất cả những người hữu duyên. Chính vì thế, Phật giáo được Liên Hiệp Quốc công nhận là tôn giáo hòa bình, ngày Phật đản hàng năm được tổ chức như ngày lễ hội của toàn thế giới, Đức Bổn Sư được tôn vinh là bậc Thầy dẫn đường, là vĩ nhân của nhân loại.
Hạnh viễn ly theo Bồ tát là làm lợi ích cho cuộc đời, không phải trốn tránh đời. Người xa lánh thế gian, tìm chỗ an nhàn mà sống, không xa rời tâm chấp trước, chắc chắn không bao giờ được gặp Phật và chư Bồ tát. Chẳng viễn ly tâm chấp ngã, chấp pháp, chẳng thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp của Như Lai, chẳng có có cùng hạnh nguyện dìu dắt chúng sanh đến bến bờ giác ngộ giải thoát như Phật và Bồ tát, tất yếu chẳng có được sự gia hộ của các Ngài, thì chẳng thể viễn ly được gì cả, cũng như chẳng thể ra khỏi Nhà lửa tam giới để đến Niết bàn hay Tịnh độ của chư Phật.
Chúng ta ai cũng đã từng thương yêu, nhưng có lẽ ít người có cơ hội tính sổ lại tình thương của mình, xem thử ta đã khổ đau như thế nào trong khi thương, đã hạnh phúc như thế nào trong khi thương, và đã học được gì trong quá trình thương yêu, khổ đau, và hạnh phúc đó.
Lang thang làm kiếp phong trần mãi mãi, Ngày cách quê hương muôn dặm đường.
Này các thiện nam, tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài, thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo. (Kinh Bộ Tăng Chi, A. I. 188)
Một giọt nước vừa tan/ Một mầm cây bật dậy
Trên con đường tu học, chúng ta đâu cần thiết phải học hết những giáo lý cao xa hoặc làm một việc gì lớn lao lắm phải không bạn. Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn. Tôi nghĩ con đường tu học cũng chỉ bắt đầu từ ngay ở nơi này bằng những bước chân nhỏ ấy, khi ta bước ra khỏi chiếc gối ngồi thiền của mình.
Vậy, nếu muốn khỏi khổ đau, muốn được an vui, chúng ta hãy phát tâm "tu" ngay từ giờ phút này. Nếu muốn tu hành đúng Chánh Pháp, chúng ta phải phát tâm cầu học Phật Pháp một cách mãnh liệt. Chỉ có cách đó mới có thể giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát mà thôi. Chúng ta hãy tự kiểm điểm, xem mình thuộc hạng nào sau đây: Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để mong cầu bình an, van xin điều nọ điều kia, thì hãy nên thức tỉnh, can đảm chuyển hướng tu hành để trở thành người Phật Tử chơn chánh, tuy còn trong vòng sanh tử luân hồi, nhưng cũng sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc. Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để tu học, để tu tâm dưỡng tánh, thì nên cố gắng, nổ lực hơn nữa, để mọi sự xấu xa, phiền não đều tan biến, tiến thẳng trên đường giác ngộ và giải thoát, thoát ly khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Vậy, nếu muốn khỏi khổ đau, muốn được an vui, chúng ta hãy phát tâm "tu" ngay từ giờ phút này. Nếu muốn tu hành đúng Chánh Pháp, chúng ta phải phát tâm cầu học Phật Pháp một cách mãnh liệt. Chỉ có cách đó mới có thể giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát mà thôi. Chúng ta hãy tự kiểm điểm, xem mình thuộc hạng nào sau đây: Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để mong cầu bình an, van xin điều nọ điều kia, thì hãy nên thức tỉnh, can đảm chuyển hướng tu hành để trở thành người Phật Tử chơn chánh, tuy còn trong vòng sanh tử luân hồi, nhưng cũng sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc. Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để tu học, để tu tâm dưỡng tánh, thì nên cố gắng, nổ lực hơn nữa, để mọi sự xấu xa, phiền não đều tan biến, tiến thẳng trên đường giác ngộ và giải thoát, thoát ly khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Như cây lớn, cành lá nghiêng về hướng nào thì khi bị cưa chắc chắn nó sẽ ngã về hướng đó. Như râu của hạt lúa mì, lúa mạch, nếu đặt đúng hướng mới có thể đâm thủng bàn chân. Cũng vậy, tâm của chúng ta phải nghiêng về giải thoát mới hướng cuộc đời về tịnh lạc. Tâm của chúng ta phải hướng về Giới-Định-Tuệ, vì chỉ có tuệ giác mới có thể chọc thủng vô minh. Do đó, tâm người tu phải luôn hướng về và an trụ trong Chánh pháp mới mong thành đạo nghiệp.
Có người xem Phật giáo là một hệ thống triết học. Đối với người khác, đó là một hệ thống luân lý. Cũng có người chủ trương rằng Phật giáo là một tôn giáo. Dù nhãn hiệu nào mà người ta có thể gắn vào giáo pháp do Đức Phật truyền giảng, Phật giáo là một lối sống bao hàm trọn vẹn các lãnh vực tôn giáo, luân lý và triết học, một lối sống có khả năng thanh lọc tâm và phát triển trí đến trạng thái cao thượng nhất mà con người có thể tiến đạt đến. Đây không phải là giáo lý để làm đề tài tranh luận, cũng không phải một học thuyết để nghiên cứu học hỏi suông, nhằm thỏa mãn tri thức. Chính Đức Phật gọi giáo lý này là "Dhamma Vinaya", Giáo pháp - Giới Luật, và Ngài luôn luôn nhấn mạnh đến sắc thái thực dụng của giáo pháp đó.
Thuở xưa, có một người ngu. Một hôm, hắn đi thăm người bà con ở rất xa. Đến nơi, chủ nhà đón tiếp hắn rất ân cần niềm nở, lại còn nấu những món ăn ngon để tiếp đãi; nhưng khi nấu thức ăn, chủ nhà quên nêm muối nên các món ăn đều bị lạt. Hắn vừa nếm liền nói với chủ nhà: - Hôm nay, anh nấu thức ăn đều là những món đắt tiền, tiếc là hơi lạt nên mất ngon. Chủ nhà vội vã đáp: - Ồ, xin lỗi! Tôi quên nêm muối. Chủ nhà liền xuống bếp đem muối lên nêm vào các món ăn rồi trộn đều; sau đó mời khách nếm thử, mỗi món ăn đều rất vừa miệng, ngon tuyệt vời. Hắn hỏi chủ nhà: - Anh nêm thứ gì mà làm cho thức ăn ngon tuyệt vời thế? Chủ nhà đáp: - Tôi nêm muối. Muối là gia vị chính trong các loại gia vị, cho nên nó làm cho thức ăn ngon. Hắn nghĩ: “Muối là món ăn ngon. Khi trở về ta mua muối ăn ngon hơn, khỏi phải nấu nhiều món ăn”. Vì thế, trên đường về hắn mua một bao muối, vừa về đến nhà hắn vội vàng mở ra, bốc một nắm bỏ vào miệng. Chao ôi! Mặn chát không chịu nổi. Hắn cho rằng mình bị người bà con chơi xỏ.
Ai làm được gì thì mình hoan hỉ, vui mừng, chớ không sanh tâm đố kỵ. Chúng ta đi chùa bằng cả niềm tin thân yêu với nhau, cùng tu học trong nền đạo đức thuần túy, không để những tâm niệm hẹp hòi, tầm thường làm mất ý nghĩa cao thượng của đạo. Ngược lại, nếu đi chùa nhiều mà phe này nhóm nọ kình chống nhau, đó là chưa biết đi chùa.
Người ta có thể vì thấy khổ sinh tử nên phát tâm xuất gia tìm cách chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này, như người vào rừng tìm lõi cây. Nhưng có người, sau khi xuất gia, vì danh dự lợi dưỡng và sự tôn kính của người đời, đâm ra tự mãn, tham đắm, tự cho đã đạt mục đích. Người này ví như kẻ thay vì tìm lõi cây, lại đem về cành lá. Có người xuất gia dù được danh dự lợi dưỡng cung kính cũng không phóng dật, sống có giới hạnh. Do thành tựu giới đức, vị ấy khen mình chê người, trở nên phóng dật: như người tìm lõi cây mà chỉ đem về vỏ ngoài. Hạng thứ ba là người sau khi thành tựu giới, tập thiền định, do thành tựu thiền định, đâm ra tự mãn, khen mình chê người, trở nên phóng dật. Vị này giống như người đi rừng cốt lấy lõi cây nhưng chỉ đem về vỏ trong. Hạng thứ tư không vì thành tựu thiền định mà phóng dật, nên có được tri kiến, và do tri kiến nên khen mình chê người: hạng này như người đi rừng chỉ đem về giác cây. Hạng thứ năm nhờ có tri kiến nhưng không phóng dật, mà thành tựu giải thoát tạm thời và giải thoát vĩnh viễn. Tâm giải thoát bất động này chính là lõi cây, là mục tiêu của đời sống phạm hạnh.
Chúng ta tu theo đạo Phật không khéo bị quên mất gốc." Tại sao chúng tôi lại đưa ra đề tài này? Bởi vì là người xuất gia, bắt buộc chúng ta phải phăng tìm nguồn gốc của đạo Phật, lấy đó làm nền tảng vững chắc cho đời tu, luôn luôn nương tựa vào đó, chớ không thể nào quên hay đi sai lệch được. Do đó chúng ta phải quay về tận nguồn gốc của đạo Phật, xem ai là người khai sáng đạo Phật và Ngài đã tu hành truyền bá như thế nào, mà Phật giáo còn mãi đến ngày nay? Chúng ta là hàng hậu học kế thừa nối tiếp, phải làm những gì xứng đáng là đệ tử của Phật. Ðó là mục tiêu tôi nhắm đến.
Này các Tỷ-kheo, có hai loại hội chúng này. Thế nào là hai? Hội chúng cặn bã và hội chúng tinh hoa. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng cặn bã? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo đi đến con đường dục, đi đến con đường sân, đi đến con đường si, đi đến con đường sợ hãi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng cặn bã. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hội chúng tinh hoa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ-kheo không đi đến con đường dục, không đi đến con đường sân, không đi đến con đường si, không đi đến con đường sợ hãi, này các Tỷ-kheo, đây gọi là hội chúng tinh hoa.
Hoa sen là loài hoa được đưa vào mỹ thuật từ rất sớm, phổ biến với nhiều biểu tượng cao quý. Đối với người Ai Cập, sen được biểu hiện cho dương khí. Nhưng đối với Nam Á và phương Đông, sen lại chứa nhiều yếu tố âm, nó là bóng dáng của phái đẹp. Trong nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam, chúng ta từng gặp những đài sen là chỗ ngồi của Phật và các linh vật ở miền tịnh thổ (đất Phật) biểu hiện cõi chân như, yên lặng tuyệt đối, cõi không sinh, không diệt. Những người theo đạo Phật thường hiểu sen với những đường gân như 84 vạn pháp môn chảy chung về một nguồn, đó là cuống sen và cũng chính là nguồn giải thoát, là nhất chính đạo đi về một hướng để chuyển tải Phật pháp hòa nhập vào cuộc đời.
Một người theo đạo Phật, một người con Phật chính hiệu sẽ mang đến cảm giác yên bình cho những người mà họ tiếp xúc, vì người con Phật luôn biết trân trọng từng phút giây trong cuộc sống, họ cười nhiều, thương nhiều và tha thứ cũng nhiều. Họ biết cách buông bỏ quá khứ, sống trong hiện tại như một món quà quý giá mà họ có được. Nào, ta hãy cùng nhau điểm qua một vài đặc điểm cơ bản nhận biết người con Phật mọi người nhé.
Hãy lắng nghe chính mình trong từng móng tâm động niệm, xét nét những xao xuyến, lo âu làm ta đánh mất chánh niệm, chạy theo dục lạc phù phiếm bên ngoài. Rồi phải biết lắng nghe người khác, hiểu nguồn cơn của oán thù, ganh ghét…và luôn hướng về sự bình an trước hết nơi lòng mình, và cầu mong yên vui cho người khác. Được như thế, chúng ta sẽ có những cộng đồng biết sẻ chia, vun đắp thương yêu. Cuộc sống thị hiện tinh thần vô úy Quán Thế Âm.
Ngắm nhìn đức Phật cùng phong cách, ngôn ngữ, cử chỉ của ngài, Āḷavaka cảm thấy có cái gì đó bất khuất, uy dũng, ngùn ngụt tỏa ra một sức mạnh mà gió không thể lay, bão không thể chuyển; nó biết rõ, với sức của nó thì nó cũng chẳng thể làm được cái gì! Bèn tự nghĩ:“Ta sẽ thay đổi chiến thuật một cách rất là đúng pháp và luật. Số là như thế này. Có một bài kinh, nghe nói là cha mẹ ta học được từ thời đức Phật Kassapa. Thuở thanh niên, cha mẹ ta có dạy cho ta, giải thích cho ta nhưng lâu quá ta quên mất rồi! Nhưng những câu hỏi khó khăn, phức tạp ấy thì ta còn nhớ. Trước đây, ta đã từng hỏi không biết bao nhiêu là bậc, là đấng được gọi là đạo sư, là chân sư, là giáo chủ trên thế gian này, nhưng họ đều “co vòi” hoặc “bí rị” cả! Nếu không “co vòi” hoặc “bí rị” thì họ sẽ trả lời vòng quanh, trườn uốn như con lươn! Không trườn uốn như con lươn, thì nếu ta hỏi gà là họ đáp vịt, nếu ta hỏi mít thì họ đáp xoài! Nếu không như vậy, nếu có trả lời được vài phần, thì những đáp vấn kia cũng chưa làm cho lỗ tai ta được hoan hỷ, chưa làm cho trí óc ta bớt rối rắm! Nay ta sẽ đặt lại những câu hỏi ấy cho ông sa-môn Gotama này, và rồi ta sẽ có kế độc!”
Này Hiền giả, Ta không thấy một ai ở chư Thiên, Ma giới, Phạm thiên hay với chúng Sa môn, Bà la môn và loài người có thể làm tâm Ta điên loạn hay làm bể tim Ta, hay nắm lấy chân quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi, nếu ông muốn. Này Sa môn: “Cái gì đối với người, là tài sản tối thượng? Cái gì khéo hành trì, đem lại chơn an lạc? Cái gì giữa các vị, là vị ngọt tối thượng? Phải sống như thế nào, được gọi sống tối thượng?”. Này Hiền giả: “Lòng tin đối với người, là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì, đem lại chơn an lạc. Chân lý giữa các vị, là vị ngọt tối thượng. Phải sống với trí tuệ, được gọi là sống tối thượng”.
Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất quan tâm đối với con người. Chết rồi sẽ đi đâu về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cõi âm hay không? v.v... Đó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn nhân loại. Các nền tín ngưỡng và tôn giáo trên thế giới đều có những quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không phải là một giáo lý đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người còn bị trầm luân trong sanh tử khổ đau. Do đó, trong các kinh điển của cả Nam tạng và Bắc tạng đề thảng hoặc đề cập đến các vấn đề luân hồi, như là một hiện tượng trôi chảy của những đời sống nối tiếp nhau. Đặc biệt là trong Bổn Sinh (Tiểu Bộ kinh) đã ghi lại các mẩu chuyện tiền thân của Đức Phật, như là một xác chứng hùng hồn về cuộc sống luân hồi của vị đại Bồ tát.
Bông hoa tươi đẹp dự báo một hương sắc tinh khiết đối với người trồng hoa cần mẫn. Cũng vậy, điềm lành tối thượng của Phật tử dự báo một nếp sống hạnh phúc an lạc đối với người Phật tử chuyên tâm học pháp và hành pháp. Mọi khả năng đều nằm sẵn trong bàn tay của chúng ta, trông chờ sự quyết tâm, nỗ lực thực hành của mỗi người chúng ta. Đã qua rồi các thời đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi hạnh phúc là gì và đạo đức là gì? Ngày nay, không nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã hiểu rõ hạnh phúc không thể trông chờ người khác và đạo đức không chỉ là sự cổ vũ, đề cao các giá trị nhân bản trên sách báo, hoặc trong các bài diễn văn mang tính chuyên đề. Cuộc sống hiện đại không cần thêm lượng tri thức về hạnh phúc và đạo đức. Cuộc sống hiện đại trông đợi nhiều những biểu hiện của đạo đức và hạnh phúc nơi mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi xã hội.
Ta thấy tất cả chúng sanh ở thế gian bị mười thứ não hại ghét ganh lẫn nhau.Những gì là mười ? Một là đã từng ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại. Hai là hiện nay ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại. Ba là sẽ ở nơi thân mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại. Bốn là đã từng ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại. Năm là hiện nay ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại. Sáu là sẽ ở nơi sở ái của mình làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại. Bảy là đã từng ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh lòng não hại. Tám là hiện nay ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh lòng não hại. Chín là sẽ ở nơi mình chẳng ưa mến mà làm điều lợi ích nên sanh lòng não hại. Mười là ở những nơi lỗi lầm mà làm điều chẳng lợi ích nên sanh lòng não hại.
Nếu chúng ta tu tập Giới-Định-Tuệ như pháp, có chánh kiến thanh tịnh thì thứ nhất ta không rơi vào điên đảo tưởng và nhìn nhận các pháp đúng như thật bản chất của nó, thứ hai chúng ta không chấp vào cái thấy của mình mặc dù cái thấy biết của mình là chân chánh, khi đó ta mới hoàn toàn vượt ra ngoài kiến chấp. Nhà Thiền đã nói “Đạo tại nhãn tiền”. Đạo ở ngay trước mắt, đạo ở trong tất cả mọi sự mọi vật, trong lòng thực tại, nhưng lâu nay chúng ta không thấy; vì tâm mãi dong ruổi theo ngoại duyên đắm trước vào trần cảnh, không nhận rõ chánh tà, cứ thế lẩn quẩn mãi trong nẻo mê lầm, tăm tối. Nếu có chánh kiến, chánh niệm, lắng sâu tâm thức vào giờ phút hiện tại, chúng ta sẽ nghe tất cả các pháp cất tiếng vi diệu nhiệm mầu. Mọi bí mật của vạn hữu sẽ mở toang cho chúng ta hiểu rõ được tận cùng uyên nguyên của chúng. Có chánh kiến, chánh niệm, chúng ta sẽ đi trong cuộc đời một cách vững chãi thảnh thơi, tự tại trước bao thăng trầm vinh nhục của cuộc sống; chúng ta sẽ thấy giải thoát là một điều rất tự nhiên và có sẵn ngay trong trần thế, chứ không cần tìm ở một nơi chốn nào xa xôi. Có chánh kiến, chánh niệm, tất cả mọi suy nghĩ, việc làm và lời nói hàng ngày của chúng ta là những hành động khế hợp với bản tâm của chư Phật, Bồ Tát, Thánh-Hiền, là những đóa hoa lòng tinh khôi sáng ngời tuệ giác, tỏa hương thiền thanh tịnh giữa nhân gian.
Từ Puñña hay phước là cái làm cho tâm trong sạch, cái đó thực sự có nghĩa là thiện nghiệp. Kiriya hay sở tác là cái phải được làm. Vatthu có nghĩa là nền tảng hay căn bản cho sự thịnh vượng và hạnh phúc. Như vậy những hành động nào xác định phải được làm vì chúng là căn bản cho sự thịnh vượng và hạnh phúc (mangala - phúc lành) thì được gọi là “phước nghiệp sự” (Puññakiriyāvatthu). Có mười phước nghiệp sự là: 1. Bố thí (Dāna) 2. Trì giới (Sīla) 3. Tu thiền (Bhāvanā) 4. Cung kính (Apacāyana) 5. Phục vụ (Veyyāvacca) 6. Hồi hướng công đức (Pattidāna) 7. Tuỳ hỷ công đức (Pattānumodanā) 8. Thính pháp (Dhammassavana) 9. Thuyết pháp (Dhammadesanā) 10. Tri kiến chân chánh (Diṭṭhịukamma)
Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam xuất hiện trong tác phẩm Cựu tạp thí dụ kinh do Khương Tăng Hội (?-280) soạn. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong cuốn Lục độ tập kinh cũng do Khương Tăng Hội soạn. Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam. Như vậy, ngay từ rất sớm, vào trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới thiệu tại nước ta, người Phật tử Việt Nam cũng đã bước đầu được tiếp xúc với tư tưởng tín ngưỡng Tịnh Độ. Và sau đó, vói sự xuất hiện của bản kinh quan trọng là kinh Vô lượng thọ do nhà sư Đàm Hoằng (?-455), một vị tăng người Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh Độ với ước nguyện vãng sinh Cực Lạc, đến Việt Nam tu học tại nước ta, truyền bá. 
Có thể thấy rằng trào lưu Tịnh Độ ở nước ta dẫu có một lịch sử lâu dài nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái, không có vị trí độc lập, tách biệt với các tông phái khác, đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh Độ tông ở  Trung Hoa hay Nhật Bản. Tuy ở Việt Nam từ trước tới nay Tịnh Độ tông chưa thành một hệ thống pháp môn riêng biệt, nhưng sau thời nhà Trần, khoảng đầu thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XX, phương pháp tu hành của Tịnh Độ dưới hình thức đọc tụng kinh A Di Đà và niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Phương pháp này đã được kết hợp hài hoà với các thiền phái tại Việt Nam thể hiện qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam, thì thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh Độ là hết sức sâu đậm. 
Mãi đến cuối thế kỷ thứ VI, Phật giáo ở Việt Nam mới có tổ chức hệ thống, mở đầu bởi thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (còn gọi là dòng thiền Nam Phương). Sang thế kỷ thứ IX, có thêm thiền phái Vô Ngôn Thông (còn gọi là dòng thiền Quan Bich) và đến thế kỷ thứ XI đời nhà Lý, lại có thêm thiền phái Thảo Đường. Rồi tiếp theo là thiền phái Yên Tử và Trúc Lâm Yên Tử. Các thiền phái này phát triển và làm cho Phật giáo Việt Nam hưng thịnh. Bên cạnh đó trào lưu niệm Phật theo tư tưởng Tịnh Độ vẫn xuất hiện đan xen trong các thiền phái. 
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam rất sớm ngay từ thời kỳ dựng nước. Phật giáo Việt Nam có thể đã hình thành từ trước Công nguyên và phát triển mạnh từ khoảng thế kỷ thứ II và thứ III sau Công nguyên, khi đất nước còn là đất Giao Chỉ phụ thuộc vào các triều đại phong kiến của Trung Quốc. Sử liệu Phật giáo để lại cho rằng các tăng sĩ Ấn Độ đi truyền giáo theo đường biển đã vào Giao Châu và ở lại đây hoằng pháp.
Giáo lí cơ sở của Pháp Nhiên dựa trên các bộ kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà và Quán Vô Lượng Thọ. Cách tu hành của tông này chỉ là việc tụng niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật". Việc niệm danh hiệu Phật rất quan trọng để phát triển lòng tin nơi Phật A Di Đà, nếu không thì hành giả không thể nào vãng sinh vào cõi của Ngài, đó là mục đích chính của việc tu hành của tông này. Pháp Nhiên quan niệm rằng, đa số con người không thể đi con đường khó, hoàn toàn tin vào tự lực trong thời mạt pháp và cơ hội duy nhất của họ là tin vào sự hỗ trợ của Phật A Di Đà, tin vào tha lực của Phật và Thánh chúng mới giúp cho con người dễ dàng tu tập và sinh về cảnh giới của Ngài là được an lạc trong cõi Cực lạc và được giải thoát.
Tịnh Độ tông Nhật Bản vốn có nguồn gốc từ Tịnh Độ tông Trung Quốc, được đạo sư Viên Nhân (793-864), người Nhật đem về cùng với các giáo lý của Thiên Thai tông và Mật tông mà sư đã tiếp thu trong thời gian du học tại Trung Quốc. Sư là người truyền bá phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. Những vị nổi danh của tông này trong thời gian đầu là Không Dã Thượng Nhân (903-972), cũng được gọi là Thị Thánh, vị "Thánh ở chợ", và Nguyên Tín ( 942-1017). Trong thời này, niệm Phật là một thành phần trong việc tu hành của tất cả các tông phái tại Nhật, đặc biệt là Thiên Thai tông và Chân Ngôn tông.
Phật giáo từ Ấn Độ phát triển sang Trung Quốc vào những năm đầu của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Từ đời Đông Hán  (25 – 220 SCN) về sau, đạo Phật càng ngày càng được mở rộng ở Trung Quốc, nhưng đến đời Lục Triều trở đi mới có vẻ thịnh đạt, rồi đến đời Tùy Đường mới là cực thịnh. Trong thời gian ấy (từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI), có một vị cao tăng Ấn Độ là Cưu Ma La Thập (344 -  413) sang Trung Quốc được tôn làm Quốc sư. Cưu Ma La Thập đã dịch kinh và luận Đại Thừa ra Hán văn như Kinh Kim Cương, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma, Trung Quán luận, Thâp nhị môn luận v.v…Cùng trong thời kỳ đó có những vị tăng Trung Hoa đi sang Ấn Độ cầu pháp thỉnh kinh như vào năm Long An thứ ba (399) đời vua An Đế nhà Đông Tấn, có các vị Pháp Hiển, Tuệ Cảnh và Đạo Chính.
Như trên đã nói trong thời kỳ đức Phật còn tại thế và sau đó vào những thế kỷ trước Tây lịch, trước khi tư tưởng Đại thừa phát triển,Tịnh Độ tông ở Ấn Độ chưa hình thành pháp môn rõ rệt. Tuy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này không bộc lộ mạnh mẽ nhưng ăn sâu vào tâm khảm của giới tu tại gia trong khi các tăng đoàn thuộc giới xuất gia lại quan tâm tu tập để giải thoát sinh tử, đạt đến Niết bàn. Vì vậy tư tưởng Tịnh Độ trong thời kỳ này ở Ấn Độ chưa phát triển mạnh mẽ, có thể nói bị lu mờ và cũng chưa hình thành tông phái rõ rệt. Cũng vì vậy mà trong kinh điển Tiểu thừa ít thấy nói đến pháp môn Tịnh Độ. Tuy nhiên, vào những thế kỷ đầu sau Tây lịch, khi tư tưởng Đại thừa phát triển cùng với sự phát triển Phật giáo lên phía bắc thì tư tưởng Tịnh Độ mới có dịp phát triển lớn mạnh và rộng rãi, nhất là ở Trung Quốc.
Pháp môn Tịnh Độ chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực lạc Tịnh Độ, bằng tự lực với Tín, Nguyện, Hạnh tương ưng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà. Hành giả còn phải nương nhờ Phật lực để vãng sinh về Cực lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn. Tịnh Độ tông không phải là một pháp môn chỉ có tín ngưỡng Tịnh Độ Cực lạc và Đức Phật A Di Đà, không phải chỉ có niềm tin, mà đó là pháp môn chủ trương con đường tu tập Giới, Định, Tuệ mà chủ yếu là Giới và Định. Do nhờ công phu tinh tấn niệm Phật mà thành tựu Định đạt đến nhất tâm bất loạn, niệm Phật tam muội. Nhờ thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành Thập thiện và tu tạo các công đức phúc lành (trong đó có hộ trì Tam bảo, hoằng dương chính pháp, từ thiện, bố thí, phóng sinh v.v..) mà thành tựu được Giới. 
Tây Phương Tịnh Độ: Còn được gọi là Cực lạc thế giới, An dưỡng, Lạc bang v.v…Kinh điển Đại Thừa thường tán thán cảnh giới thù thắng của Tây phương và công đức bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà là chính báo, cảnh Tây phương cực lạc là y báo. Nếu chúng sinh nào chuyên tâm niệm danh hiệu của Ngài, tu tập thiện pháp và quán tưởng cảnh giới Tây phương thì đến lúc lâm chung sẽ được vãng sinh về Tây phương Tịnh Độ. Điều đáng chú ý là hành giả tu tịnh độ tin sâu vào tha lực của đức Phật và chư Bồ Tát. Lối tu này bao gồm cả tự lực và tha lực. Tự lực là tự mình y theo giáo pháp tu học để có đầy đủ phúc đức mới được vãng sinh. Trong kinh A Di Đà có dạy rằng không thể lấy chút ít căn lành và phúc đức mà được sinh về cõi Cực lạc được. Đức Phật khuyên chúng ta phải tự mình nỗ lực mới tiếp nhận được năng lực của Ngài. Niệm Phật còn có thể phát sinh công đức, tiêu trừ vọng nghiệp và thành tựu thiền định.
A Súc Phật Tịnh Độ: Cõi tịnh độ này được đề cập trong kinh Duy Ma Cật, một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Tịnh độ theo nghĩa này là pháp tu thực tiễn được các tông phái Phật giáo Đại thừa rất chú trọng. Tư tưởng Tịnh độ này tương ứng với tư tưởng Bát Nhã, đặc biệt là mang tinh thần nhập thế rất tích cực, đề cao việc hành Bồ tát hạnh và kiến lập Tịnh độ ngay tại tâm. Kinh Duy Ma Cật nhấn mạnh rằng thanh tịnh hóa thân tâm tức là tịnh độ cõi Phật. Cư sĩ Duy Ma Cật được xem là hiện thân của hành giả từ Quốc độ Diệu Hỷ đến cõi này tuyên dương chính pháp, hộ trì cho Phật Thích Ca giáo hóa chúng sinh.
Dược Sư Tịnh Độ: Đó là cõi tịnh độ của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Khi còn là Bồ tát, Ngài đã phát mười hai lời nguyện để cứu khổ chúng sinh. Chúng sinh nào khổ đau, hoạn nạn, bệnh tật biết niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tai qua nạn khỏi, đời sống an ổn. Do vậy, các Phật tử thường trì tụng kinh Dược Sư để cầu an, giải khổ là nghĩa đó. Nếu phát tâm bồ đề và có ý nguyện cầu vãng sinh thì sẽ được Ngài tiếp độ.
Di Lặc Tịnh Độ: Đó là cõi tịnh độ của Đức Phật Di Lặc, một vị Phật tương lai của thế giới loài người đang sống, hiện đang ở cõi trời Đâu Suất . Ngài Đạo sư Vô Trước , người sáng lập ra trường phái Duy thức học của Phật giáo  đã viết những bộ luận nỗi tiếng như Du Già Sư Địa luận, Đại Thừa Trang Nghiêm luận, Phân Biệt Du Già luận và Kim Cương Bát Nhã luận. Tất cả những công đức và trí tuệ này mà Ngài viết được là do Ngài tiếp nhận được sự giáo hóa của Bồ tát Di Lặc. Về sau có nhiều hành giả trong trường phái Duy Thức học phát nguyện sinh về cõi Đâu Suất Tịnh Độ. Đâu Suất Tịnh Độ thuộc tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi dục. Nếu tu tất cả các thiện pháp và tùy nguyện mới sinh vào nội viện của cõi Đâu Suất, nếu không phát nguyện chỉ sinh vào ngoại viện như là một vị chư Thiên. Do từ đó mà tín ngưỡng Di Lặc tịnh độ xuất hiện. 
Địa chỉ: Tổ 7, phường Ia Kring, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai. ĐT: 0905001720. Người sáng lập: NT. Hiệp Liên. Trụ trì: SC. Thúy Liên.
Sáng ngày 18-11-2018 (nhằm ngày 12 tháng 10 năm Mậu Tuất), Tịnh xá Ngọc Qui (P. Cam Phú, Tp. Cam Ranh, Khánh Hòa) đã long trọng tổ chức lễ Khánh thành ngôi tịnh xá.
Ngày 25/11/2018 (nhằm ngày 19/10 năm Mậu Tuất), Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Kon Tum tổ chức lễ công bố quyết định bổ nhiệm trụ trì Tịnh xá Ngọc Hạnh (89 Hùng Vương, phường Quang Trung, TP.Kon Tum, tỉnh Kon Tum) cho ĐĐ. Giác Bửu, Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni GHPGVN tỉnh.
Ngày 24/11/2018 (nhằm ngày 18/10 năm Mậu Tuất), Ban trị sự GHPGVN tỉnh Gia Lai tổ chức lễ công bố quyết định bổ nhiệm trụ trì Tịnh xá Ngọc Nghiêm (tổ 7, phường Ia Kring, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) cho Sư cô Thúy Liên.
Tịnh xá Trung Tâm, TP.Hồ Chí Minh tọa lạc ở số 21 đường Nguyễn Trung Trực, phường 5, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Tịnh xá thuộc Hệ phái Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập. Tịnh xá được xây dựng trong khoảng 10 năm, bắt đầu từ tháng 4 năm 1965, trên một khu đất rộng 5.490m² do bà Diệu Kiến phát tâm cúng dường cho Hòa thượng Pháp sư Giác Nhiên, sau này được Hòa thượng Giác Toàn và Hòa thượng Giác Phúc đã tổ chức trùng tu, mở rộng tịnh xá vào năm 1980. Sân trước chùa có bảo tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đứng trên đài sen cao 13,5m. 18 năm sau, vào ngày 20 tháng 7 năm Mậu Dần (10-9-1998), bảo tháp mới được khởi công xây dựng do Hòa thượng Giác Phúc chứng minh, Hòa thượng Giác Toàn chủ trì. Bảo tháp do kiến trúc sư Trần Tuấn Anh (pháp danh Chúc Lạc) thiết kế họa đồ kiến trúc, Hòa thượng Giác Tuệ quản lý thi công, Đạo hữu Minh Thạnh và nhóm thợ thực hiện công trình.
Làm Phật sự thì không gì hơn là chuyên tụng kinh, bái sám và trì niệm danh hiệu Phật. Có thể tự trong gia thuộc mình tụng lấy, hoặc mời đạo hữu tụng thêm. Các kinh thường tụng là Di Đà, Kim Cang hoặc Đại Bi Thần chú v.v... Tụng niệm xong nên hồi hướng công đức cho vong giả làm tư lương cầu sanh Cực Lạc. Nếu như trong gia thuộc mình không ai tụng kinh được thì chuyên niệm hiệu Phật cũng đủ rồi.  Còn như di sản của vong giả để lại, nếu là của cải thì nên đem làm việc phước thiện như: Bố thí kẻ nghèo khó, giúp đỡ người tàn phế, cấp dưỡng cô nhi quả phụ hay phụ nữ sanh đẻ, hoặc làm chùa, chú tượng, ấn tống kinh điển, cúng dường chúng tăng v.v... Làm các việc phước thiện ấy rồi đem công đứchồi hướng cầu cho vong giả tội diệt phước sanh, vãng sanh Cực Lạc. Như thế thì người còn kẻ mất, thảy đều được công đức lớn lao không thể kể xiết. Kinh Địa Tạng nói:"Trong khi vì người chết mà làm việc công đức thì người sống đã hưởng hết sáu phần mà người chết chỉ nhờ được một phần thôi".
Nhất tâm bất loạn nghĩa là ngoài sự nhớ Phật, tuởng Phật, không có một vọng niệm nào xen lẫn ở trong lòng: lòng mình và Phật đã xứng hợp làm một.  Kinh văn đã dạy rõ ràng như thế, đương nhiên tuyệt đối chúng ta phải tin. Có e ngại chăng là e ngại tịnh nghiệp tu chưa tinh tấn nên phút lâm chung, tâm còn điên đảo khiến khó thấy được Phật tiếp dẫn. Tâm còn điên đảo thì cũng khó mà vãng sanh. Vì vậy trong khi gần lâm chung rất cần có người hai bên trợ niệm. Có kẻ trợ niệm mới dẫn phát tâm người bệnh niệm Phật. Lý do cần thiết lập các ban hộ niệm là thế. 
Trong sự chuyển tiếp từ kiếp nọ sang kiếp kia, cái niệm chót (nhất niệm tối hậu) có một lực lượng mãnh liệt quyết định cho việc chuyển sanh. Vì lý do đó nên lúc lâm chung, người tu hành phải làm thế nào để còn nhớ Phật, niệm Phật thì chắc chắn sẽ sanh về cõi Phật.  Kinh "Phật Thuyết A Di Đà" dạy rằng: "Nếu người nào niệm Phật trong bảy ngày được nhất tâm bất loạn, lúc lâm chung, có Phật và Thánh chúng hiện ra trước mặt, người ấy tâm không còn đìên đảo và liền được vãng sanh". 
Vạn nhất, nếu còn nhứt điểm hồ nghi ở trong lòng thì tâm lực sẽ mất công dụng, không làm sao chuyển biến được chủng tử trong bát thức. Nếu tâm hồn còn hồ nghi, pháp môn Tịnh Độ sẽ không đem lại hiệu quả nào cho hành giả hết. Kinh dạy: "Còn nghi thì hoa không nở" là chỉ cho duyên cớ ấy.  Đức Phật A Di Đà biết rõ chủng tử có thể biến từ hữu lậu sang vô lậu, công đức có thể từ cõi nầy di dịch qua cõi khác, nên mới phát đại nguyện thứ 20. Trăm ngàn năm trở lại đây, các vị đại đức cũng hiểu rõ lý đó, nên mới soạn ra các bài văn phát nguyện hồi hướng Cực Lạc khuyên ta đem công đức tu hành hồi hướng về quả vãng sanh thế giớI Cực Lạc. 
Nếu vì lý do không muốn thọ hưởng quả báo nhơn thiên vì sợ còn luân hồi đọa lạc mà hành giả tự nguyện hồi hướng tất cả công đức của mình hoặc công đức hữu lậu hoặc công đức vô lậu, làm trợ duyên tăng thượng để cầu vãng sanh Cực Lạc thì phải đem tất cả công đức ấy hồi hướng về quả CựcLạc của đức A Di Đà. Như thế thì bao nhiêu nhơn gây phuớc báo nhơn thiên hữu lậu hoạc vô lậu trước kia sẽ không thành thục được mà địa điểm thành thục sẽ chỉ ở thế giới Cực Lạc. 
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: "Phật bảo ngài A Nan và bà Vy Đề Hy rằng nếu có chúng sanhnào nguyện cầu sanh về Tây phương Tịnh Độ, nên phát khởi ba tâm thì liền đặng vãng sanh. Ba tâm ấy là: 1) Chí thành tâm, 2) Thâm tâm, 3) Hồi hướng phát nguyện tâm. Có đủ ba tâm ấy, quyết được vãng sanh về cõi nước kia".  Danh từ "Thâm tâm" trong kinh chỉ cho cái tâm tu hành các công đức và thích làm các điều lành.  Danh từ "hồi hướng phát nguyện tâm" chỉ cho cái tâm muốn đem các công đức đã tu hoặc đem các việc lành đã làm, hướng về quả Cực Lạc để nguyện cầu vãng sanh. 
Thảng hoặc, có người trước kia đã trót lỡ tạo các ác nghiệp, thì hôm nay nên chí thành ăn năn hối cải, nguyện không tái phạm. Cửa Phật rộng mở chờ đón người biết sám hối. Một phen đã sám hối rồi, thề quyết không bao giờ tái phạm trở lại. Hơn nữa, phải cố gắng đền bù tội lỗi trước, bằng cách làm nhiều việc thiện mới. Được như thế thì ác báo sẽ tiêu tan và phước đức sẽ tăng trưởng. Ví như cái chai trước kia đựng thuốc độc, nhưng giờ đây súc chùi sạch sẽ rồi, tự nhiên độc không còn nữa. 
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật bảo bà Vi Đề Hy rằng: "Muốn sanh về nước Cực Lạc, phải tu ba phước. Trong ba phước ấy, phước thứ nhất là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu mười nghiệp thiện".  Vì thế, người tu pháp môn Niệm Phật cần phải tu mười điều thiện để làm cơ bản cho tịnh nghiệp. Nếu đạo niệm không tha thiết, mười thiện nghiệp không tu, thời thiệt e khó vãng sanh cảnh giới chư Phật.  Tóm lại, muốn chắc chắn vãng sanh, một mặt cần phải luôn luôn gìn giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý chớ để phạm các điều ác; mặt khác lại phải luôn luôn chuyên cần niệm Phật thì mới mong thành tựu viên mãn. 
Qua những điểm khái quát về ba yếu tố tín, nguyện, hạnh của pháp môn niệm Phật, chúng ta thấy pháp môn này có phần đơn giản, dễ thực hành mà kết quả lại cao tuyệt. Pháp môn này là thuyền từ ra khỏi Ta bà, là cửa mầu để vào Phật đạo (Xuất Ta bà chi bảo phiệt, thành Phật đạo chi huyền môn). Sự dễ tu dễ chứng so với các pháp môn khác được các bậc cổ đức đánh giá: “Tu các pháp môn khác, như con kiến bò dọc theo ống tre, hành trì môn Tịnh độ như con kiến đục thủng ống tre ra ngoài”.
Vấn đề quan trọng của pháp niệm Phật là trong khi niệm phải giữ tâm thanh tịnh, bởi tâm thanh tịnh là nhân tố quyết định cho việc thành tựu cảnh giới nhất tâm. Muốn đạt được điều này, theo Tổ sư Ấn Quang: “Khi hành giả đề khởi câu Phật hiệu, tai phải nghe rõ ràng từng chữ, tâm phải trụ vào câu Phật hiệu, không chạy theo vọng trần và nhiếp tâm liên tục, hành giả sẽ tiến sâu vào cảnh giới chánh định”. Chánh định hay nhất tâm sẽ làm cơ sở cho tuệ giác bùng phát, theo Đại sư Liễu Nhất: “Khi tâm chuyên chú vào câu Phật hiệu, quên cả thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian thời gian, đến lúc vọng hoặc tiêu tan, tâm thể bừng sáng, hành giả có thể chứng được niệm Phật tam muội”.
Sau cùng là Trì danh niệm Phật, đó là niệm thầm hay niệm ra tiếng bốn chữ A Di Đà Phật hay sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật. Hành giả niệm Phật với tâm tha thiết chí thành không xen lẫn tạp niệm, chỉ chú tâm vào danh hiệu Phật, lần hồi sẽ đi vào cảnh giới nhất tâm. So với ba môn trước thì pháp Trì danh niệm Phật có phần giản dị dễ tu và dễ thành tựu. Đây quả thật là phương tiện thù thắng trong các phương tiện, là đường tắt tu hành trong mọi đường tắt.
Quán tưởng niệm Phật là hành giả quán tưởng chánh báo và y báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đàvà thế giới Cực Lạc, cho đến khi mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy cảnh giới Cực Lạc rõ ràng. Quán tượng niệm Phật là người tu luôn nhiếp tâm vào hình tượng của Phật A Di Đà, cho đến khi có đối trước hay không đối trước tôn tượng Ngài, hình tướng oai nghiêm của Phật A Di Đà vẫn hiện ra trước mắt. 
Thật tướng niệm Phật là thể nhập vào Đệ nhất nghĩa đế, niệm tánh Phật bản lai của mình. Bản thể xưa nay vốn thanh tịnh vắng lặng, không bị phiền não cấu nhiễm. Hành giả trụ tâm vào tánh Phật bản lai đó, khiến tâm không vọng động, không chạy theo niệm trần, tâm lần hồi trong sáng thể nhập vào cảnh giớinhất tâm. 
Tín nguyện đã đầy đủ nhưng thiếu phần hạnh, người tu Tịnh độ cũng khó thành tựu, vì vậy cần phải chú trọng vấn đề hành trì. Đại sư Ngẫu Ích từng dạy: “Được vãng sanh đều do ở tín và nguyện; phẩm vị cao hay thấp là bởi ở chỗ hành trì có cạn hoặc sâu”. Ngoài việc tu tạo phước đức, trí tuệ và giữ gìn giới luậtlàm trợ hạnh vãng sanh, hành giả phải thực hành chánh hạnh. Chánh hạnh ở đây là phát tâm thanh tịnhthường trì Thánh hiệu Phật. Theo pháp môn Tịnh độ thì việc niệm Phật bao gồm bốn môn then chốt là Thật tướng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật và Trì danh niệm Phật.
Tâm nguyện cầu sanh Tây phương theo Thiên Thai Trí Giả đại sư gồm hai điều là yểm ly và hân nguyện. Tâm yểm ly là tâm chán lìa. Hành giả phải luôn quán niệm sắc thân này vốn là hư vọng, chỉ là tổ hợp của năm uẩn chứa đựng khổ đau và bất tịnh. Phiền não cuộc đời luôn cấu xé tâm can, như những mũi tên độc đâm vào da thịt. Nhờ thường xuyên quán sát như thế, hành giả sẽ sanh tâm nhàm chán, đối với thân xác và mọi thú vui dục lạc ở đời sẽ không sanh tâm đắm nhiễm. Tâm chán bỏ thế giới Ta Bà càng lớn thì chí nguyện cầu sanh càng mạnh. Người niệm Phật trước sau chỉ có một ước nguyệnduy nhất là mong cầu sớm thoát khỏi lao tù Ta Bà hiện tại, nguyện thác sanh về Cực Lạc ngày mai chính là hân nguyện. Tâm tha thiết cầu sanh đó chẳng khác nào như kẻ tha phương trông ngóng cố hương, người xa cha mẹ mong ngày đoàn tụ, như trong Di Đà sớ sao có dạy: “Trông về Cực lạc như nhớ cố hương, ngưỡng mến Đức Từ Tôn như cha mẹ”.
Vũ trụ vạn hữu trùng trùng do nhân duyên hòa hợp mà thành. Vạn vật trong vũ trụ tâm và vật khơi lên đồng thời, tất cả đều nương tựa lẫn nhau, và do đó nó tạo ra một bản hòa tấu của toàn thể điệu. Nếu thiếu một thì vũ trụ không trọn vẹn. Nếu không có tất cả thì cái một cũng không. Nhưng mọi thứ đều chứa đựng trong quy luật và mục đích cả. Mọi con đường đều có chí hướng và mục đích ở phía trước để ta tiến thân. Lá rụng về cội, trăm sông đều xuôi về biển cả . Dòng sông chảy không bao giờ biết mỏi, trọn đời dâng cho bãi phù sa. Và chúng ta hãy như dòng sông ấy, hòa thác ghềnh tung bọt trắng hát ca. Sông uốn khúc quanh co trăm nghìn nhánh rồi cũng hội nhập với biển. Đời vị tha hỷ xả sẽ trở về với cõi vui “ai vì ai, ai như thế ai vì, sống biết sống, sống trong đời phải sống”.
Hòa hợp là tụ họp với nhau trong thuận thảo, không tranh chấp, không xung đột. Một cộng đồng hòa hợpluôn ở trạng  thái ổn định, các thành  viên không mâu thuẫn nhau nên không tranh chấp không xung đột; hoặc nếu có thì cũng dễ dàn xếp. Hòa hợp là phẩm chất cần thiết cho việc sống chung trong xã hội. Xã hội hòa hợp là điều kiện cần thiết cho ổn định để phát triển và mang lại an lạc. Tương tức là đến với nhau ngay tức thì, là cùng nhau có mặt. Tương tức là một vế của cặp khái niệm tương tức-tương nhập  thể  hiện  giáo  nghĩa  “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” hay “một là tất cả, tất cả là một” được triển khai trong  kinh Hoa Nghiêm, nói lên điều Đức Phật dạy, “cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh” trong giáo lý Duyên khởi. Khái niệm tương tức chỉ cho ta thấy mọi sự vật đều liên hệ mật thiếtvới nhau, khi một vật bị hư tổn thì mọi vật khác đều bị ảnh hưởng. Hòa hợp và tương tức cần được ứng dụng để góp phần tạo nên sự an lạc cho đời sống xã hội.
Người thế gian không hiểu nên thường oán trách cha mẹ không có phước nên sanh ra mình khổ, hoặc cha mẹ không có tài nên mình thua sút người ta, mà không biết chính mình thọ nhận quả báo đời trước đã tạo, nên mới sanh vào gia đình tương ưng như thế. Cha mẹ chỉ là phần phụ thôi, gốc ở bản thân chúng ta. Như vậy, thuyết luân hồi nói lên lẽ thực của kiếp người. Đức Phật đã thấy, đã nhớ rõ ràng nên nói ra cho chúng ta biết, chớ không phải do Ngài tự tưởng tượng, nhưng vì chúng sanh nhìn nông cạn quá nên không tin được.
Vũ trụ học đạo Phật chứa đựng vô số hệ thống thế giới bao lakhông thể tưởng vượt khỏi thế gian của chúng ta. Bên ngoài thế giới phàm tục, sáu cõi của luân hồi, hiện hữu vô số cõi tịnh độ trải rộng khắp mười phương của vũ trụ (tám điểm chính của la bàn, điểm cao nhất, và điểm thấp nhất). Những thiên đườngthanh tịnh này là nơi an trụ của những đấng cao cả, bao gồmchư Phật và các đại bồ tát của cõi trời.
Trong các kinh điển Đại thừa, nhắc đến bộ kinh Hoa nghiêm là chúng ta nhớ ngay đến lời dạy nổi bật của Đức Phật “Nhất thiết duy tâm tạo”. Nghĩa là muôn sự, muôn vật, muôn loài đều do tâm mà hình thành, hiện hữu. Từ căn bản của tâm chủ động ấy, người tu theo Hoa nghiêm nỗ lực vận dụng pháp tu để điều chỉnh tâm, chuyển đổi tâm sinh hoạt theo hướng tốt lành của Phật pháp.
“Sự cầu nguyện trong Phật giáo là một phương pháp để thức tỉnh những năng lực bi, trí, dũng vốn tiềm ẩn trong chúng ta hơn là thỉnh cầu những năng lực bên ngoài nhờ vào sự kính sợ, sùng tín và lợi lộc thế gian hay thần thánh nào. Cầu nguyện của Phật giáo là một hình thức thiền, đó là một phương pháp tu chỉnh nội tâm. Cầu nguyện Phật giáo thay thế cái tiêu cực bởi cái đức hạnh, và hướng chúng ta đến những cái tốt đẹp của đời sống”.
Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, không sai. Song, trong kinh Phật có dạy như vậy không? Đây là điều mà chúng ta phải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người mới tu đều nghĩ rằng: Xưa kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là mong giảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu trước đã gây nhân nào sau phải chịu quả nấy thì tu để làm gì? Tu cốt cho hết khổ, mà nếu gây nhân nào phải thọ nhận quả nấy thì tu đâu có hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất phức tạp.
Trong nhiều trường hợp, một người tự xưng là Phật tử chỉ khác người không phải là Phật tử ở chỗ khi nào trong nhà có người chết thì rước một vị Sư áo vàng tới làm lễ tang. Ngoài ra, suốt đời không hề tìm hiểu đạo Phật nghĩa là gì, không hề tìm hiểu coi đạo Phật có điều gì khác với các đạo khác, không hề biết đến giáo lý nhà Phật, không hề biết đến chùa chiền, ngoại trừ mỗi khi có công việc gì cần cầu xin, thí dụ cầu an, cầu tài lộc, cầu cho con thi đậu, cầu buôn may bán đắt.. vân vân, thì đem nải chuối đến chùa năn nỉ với Phật. Hoặc ngày Tết thì mới lên chùa, nhưng không phải là lên chùa với mục tiêu cúng dường Tam Bảo để tự huấn luyện cho bản thân mở được cánh của Bố Thí buông xả trong tâm bằng cách cúng dường vào chùa chút tịnh tài để nhà chùa có phương tiện in ấn kinh sách, duy trì Phật đường, hoằng dương Chánh Pháp, mà là lên chùa chỉ để xin xăm và hái lộc, hai việc đó thì cũng rất vui, tuy nhiên, hái lộc chỉ cần một chồi nhỏ, nhưng có người lại bưng cả một "chậu hoa lộc" về, như thế là phạm vào một trong ba tật độc hại mà Phật tử cần trừ là tật Tham
Là con người, chúng ta mong tạo nên một cõi đời được xây dựng trên sự tử tế và tình thương. Tuy vậy, mọi điều dường như đang đi chệch hướng, khi những gì tôi muốn, những gì bản thân tôi thích, lại trở nên quan trọng hơn lợi ích của toàn thể cộng đồng. Trí tuệ và từ bi luôn có mặt ở nơi xã hội loài người. Nhưng bởi vì khuynh hướng chung của chúng tathường bị dính mắc với sự vị kỷ, điều ta thích và không thích, chúng ta tạo nên những tường thành và phân cách chúng ta với người khác.
Trang nghiêm tịnh độ tức nói về Bồ tát trên đường đến Phật quả, các Ngài thường trang nghiêm Phật độ để khi thành Phật được cõi nước tương ứng. Ở đây có mấy đoạn, đoạn đầu Phật nói về thọ ký mà không có chỗ được, tức Phật nhắc lại trước kia Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng đối với pháp có chỗ được chăng? Tu Bồ Đề đáp: “Không thể được”. Ở đây phá cái nghi về thọ ký, vì ở trước nói không có quả Phật thật để thành, không có quả Vô Thượng chánh đẳng chánh giác. Vậy Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng được thọ ký cái gì? Nên có chỗ nghi, mà cũng có chỗ liên hệ đặc biệt với thiền tông. Thiền tông cũng có ấn chứng, còn ở đây gọi là thọ ký.
Trang nghiêm đài sen ngự tọa/ Đại hùng từ phụ Thích Ca/ Đệ tử lắng lòng thanh tịnh/ Bàn tay chắp thành liên hoa/ Cung kính hướng về Điều ngự/ Dâng lời sám nguyện thiết tha.
Phật dạy rằng, trong lòng không khuyết thiếu thì được gọi là “phú”, được người khác cần đến, thì được gọi là “quý”. Vui mừng sảng khoái không phải là một loại tính cách mà là một loại năng lượng. Cách tháo gỡ phiền muộn tốt nhất chính là quên phiền muộn. “Không tranh giành” chính là từ bi. “Không tranh cãi” chính là trí tuệ. “Không nghe” chính là thanh tịnh. “Không nhìn” chính là tự tại. “Tha thứ” chính là giải thoát. “Biết đủ” chính là buông.
Trong thực tế, sư tử không xuất hiện trong danh mục đề tài mỹ thuật sơ kỳ của Trung Quốc. Hình tượng sư tử được du nhập theo sự truyền bá của Phật giáo. Theo đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được tôn là Pháp vương, giống như sư tử là vua của loài thú: lời thuyết pháp của Phật được gọi là “sư tử hống” (tiếng rống của sư tử), biểu thị uy lực và diệu dụng của Phật pháp thu nhiếp được tất thảy chúng sinh. Cũng có dữ liệu cho rằng Phật là sư tử của dòng họ Sakya. Những điển tích đó giải thích việc khắc chạm một cặp sư tử trên tọa cụ của Phật Thích Ca xuất hiện ngay thời “vô tượng kỳ” - khoảng 500 năm sau khi Phật Thích Ca nhập Niết-bàn - là thời kỳ không được phép tạc tượng Phật theo hình dạng con người. Đây là nguồn cội của việc thể hiện vô số sư tử, cả điêu khắc lẫn hội họa trong mỹ thuật các quốc gia Viễn Đông chúng ta. Sư tử thường được coi là vật bảo hộ cho đền chùa hay các ảnh tượng (có khắc vẽ sư tử trên đó). Trong ngôn ngữ thông tục của giới sưu tập cổ vật phương Tây, sư tử thường được gọi là “Phúc khuyển” hay “Phật khuyển” là do ảnh tượng sư tử luôn gắn với ảnh tượng Phật giáo, với chùa chiền Phật giáo. Cách gọi này trong văn hóa phương Tây, có lẽ bắt nguồn từ cách người Nhật Bản gọi sư tử là “Cao Ly khuyển”, hoặc từ cách người Trung Quốc gọi một loài chó xù là “sư tử cẩu”. 
Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Cầu nguyện là một hành vi trong đó chúng ta biểu lộ những ước muốn khẩn thiết và mãnh liệt tự trong sâu thẳm của chúng ta và mong ước chúng được thành tựu”. Đức Phật nhấn mạnh rằng, để nhận ra tính linh thánh của chúng ta - tức Phật tánh hay giác tánh - chúng ta phải tìm từ bên trong, không phải từ bên ngoài.
Cần tảo già-lam địa/ Thời thời phước huệ sanh/ Tuy vô tân khách chí/ Diệc hữu Thánh nhân hành.
Nói xong, đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: - Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, thì hằng hà sa số chư Phật ở khắp sáu Phương Đông Tây Nam Bắc Trên Dưới đều ở tại nước các Ngài, hiện ra tướng lưỡi rộng dài (nói chân thật) trùm khắp cõi tam thiên đại thiên (1 cõi Phật) mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của Kinh: “Nhất Thiết (một lòng) Chư Phật Sở Hộ (độ cho) Niệm (nhớ) Này", vì sao tên là Kinh Nhất-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?  Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe Kinh này, và nghe danh hiệu của đức Phật A Di Đà mà thọ trì, thì những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thoái chuyển nơi đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác (bậc giác ngộ hiểu biết chân chính, không còn bậc nào hơn được nữa).  Cho nên, các ông đều nên tin nhận lời của Ta và của Chư Phật nói; nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, những người ấy đều được không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thời đã sinh sang, đang sanh sang, hoặc sẽ sinh sang.  Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân, nếu người nào có lòng tin thì nên phát nguyệnsinh về cõi nước kia. Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, thời các đức Phật cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta.
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh sang cõi đó. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tán loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung (chết) được đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.  Xá Lợi Phất, ta thấy có những lợi ích ấy nên nói những lời như thế, nếu có chúng sinh nào nghe những lời trên, nên phát nguyện sinh sang cõi Cực Lạc.
Hạnh nguyện của ngài Địa Tạng Vương Bồ-tát: “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề”. Có nghĩa là: “Địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật. Chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ-đề”. Hạnh nguyện ấy bao la trùm khắp cả hư không pháp giới, thử hỏi có bi nào như thế, có từ nào hơn thế chăng?! Nhưng để đem ra so sánh hạnh nguyện của các vị Bồ-tát thì thật là khập khiễng, vô minh. Bởi mỗi vị đi vào cõi Ta-bà uế trược này đều đem một vị thuốc phù hợp “giải độc” tham sân si cho căn cơ của mỗi chúng sanh.
Này Sariputta, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong thời quá khứ đã làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy đã làm cho khất thực được thanh tịnh bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Này Sariputta, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong thời gian tương lai sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Và này Sariputta, những Sa-môn, Bà-la-môn nào trong thời hiện tại, làm cho khất thực được thanh tịnh, tất cả những vị ấy đã làm cho khất thực được thanh tịnh, bằng cách suy tư, suy tư như vậy. Vậy này Sariputta, các Ông cần phải học tập như sau: "Sau khi suy tư, suy tư, chúng ta sẽ làm cho khất thực được thanh tịnh". Này Sariputta, các Ông phải tu tập như vậy.
Quy y Tam Bảo vừa là nghi thức vừa là nội tâm khi quy y Tam Bảo miệng phải đọc, thân phải lễ và tâm còn phải nghĩ nữa, chủ yếu vẫn là từ nội tâm lãnh thọ giới pháp quy y gọi là giới thể, giới thể cần phải do người đã quy y Tam Bảo tức là bậc Thầy xuất gia truyền trao. Đây chính là sự truyền thừa của hệ thống pháp phái. Là người phàm phu không thể nào không Thầy mà tự chứng. Do vậy quy y Tam Bảo không thể chỉ đối trước tượng Phậtvà Bồ Tát mà tự thệ nguyện thọ trì được, do vậy mà biết được tính trang nghiêm và cần thiết khi đối trước vị Thầy cầu thọ pháp Tam Quy.
Lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng ca ngợi lòng hiếu thảo đối với mẹ không thôi mà đã trở thành ngày lễ mang tính cách nhân văn, nói lên lòng hiếu kính của tất cả mọi người đối đáng sinh thành. Lòng trân trọng hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, chính là sợi dây liên kết giữa người còn kẻ mất, là truyền thống cao đẹp nêu cao tình người của dân tộc Việt.
Giáo lý vô thường rất quan trọng cho toàn cơ sở triết lý và thực hành trong Phật giáo. Nó mang đến một sự xác nhận như một sự phát hiện chân chính, đó là tất cả những hiện tượng – dù thuộc tâm lý, hay thuộc ngoại cảnh tự nhiên, không có ngoại hạng – đều là vô thường. Mặc dù chân lý này hoàn toàn hiển nhiên, có thể chứng nghiệm được mọi nơi, mọi lúc, nhưng chúng ta vẫn bị màn vô minh (sa. avidyā) vây phủ, không nhận thức được chân lý này một cách chân chính. Sự chuyển tiếp từ trạng thái không hiểu biết đến trạng thái ý thức (và thừa nhận) tính chất vô thường của vạn vật, cùng với sự thừa nhận hai tính chất kia, lập nên con đường tu học, và con đường này được Phật vạch ra trong giáo lý của mình.
Đời người sống được nhiêu năm/ Thật tâm mà sống, chẳng phiền đến ai. Đời người như chuỗi phim dài/ Đâu cần phải diễn, đâu cần nhập vai. Đời người lắm chuyện bi hài/ Người vui kẻ khóc, chuyện hài thế gian. Vui buồn rồi cũng chóng tàn/ Buồn nhiều vui ít, vô vàng khổ đau. Thật lòng ta sống cùng nhau/ Kẻ cho người nhận, trao nhau tấm lòng. Dù đời dòng chảy ngược dòng/ Khổ đau vẫn sống, mĩm cười vô tư.
Trước khi để người khác không còn oán giận thì tự tâm chúng ta phải tập tha thứ cho những người làm điều có lỗi và tổn thương đến ta. Sau khi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác, để họ yêu quý và hết lòng vì chúng ta thì lúc đó, ta mới hóa giải nỗi hận thù phát xuất từ mối nhân duyên ta nợ người khác, có lỗi với người đang oán trách ta. Với những ai đã hiểu và yêu thương chúng ta, họ sẽ là người giúp hóa giải hiềm khích, ân oán với người mà ta mắc nợ từ nhiều đời nhiều kiếp.
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sốngcủa nó bị giới hạn và đè nặng bởi cái tôi và cái của tôi. Ngay cả khi muốn giải thoát khỏi sự áp bức ấy, thông thường người ta lại làm tăng thêm cái tôi và cái của tôi: tôi đang thực hành, tôi đã đọc cuốn sách ấy, tôi có một số kinh nghiệm tâm linh thế này thế nọ… Người ta thực hành bằng ý thức, tức là thức thứ sáu, nhưng ý thức lại chịu sự thống trị của thức thứ bảy chấp ngã với bốn thứ ngã kiến, ngã ái, ngã si, ngã mạn. Ngoài ra còn bị ô nhiễm bởi những tập khí xấu trong thức thứ tám, tạng thức.
Kinh ghi chép rằng, một ngày nọ khi Đức Thế Tôn trú tại Kỳ viên Tịnh Xá, vua Ba Tư Nặc đến đảnh lễ bậc thầy tôn kính và thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Những vị Bà-la-môn sau khi chết sẽ tái sanh trở lại dòng họ Bà la môn hay tái sanh vào nhà Sát lợi, Tỳ xá, Thủ đà la? để trả lời cho vấn đề này, Đức Phật đã nêu ra bốn hạng người ở đời: Thứ nhất, hạng người từ bóng tối đi vào bóng tối; thứ hai, hạng người từ bóng tối đi ra ánh sáng; thứ ba, hạng người từ ánh sáng đi vào bóng tối; thứ tư, hạng người từ ánh sáng đi vào ánh sáng.  
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật. Thực sự, đây là vấn đề bận tâm nhất của Phật. Trong kinh điển, chúng ta thường thấy xuất hiện nhiều từ ngữ như sacca, yathābhūtam, bhūtaṃ, tacchaṃ atthasaṃhitaṃ, tatva, tathatā, dharmatā... là để nói về chân lý, hay sự thật, hay những gì phù hợp với thực tế. 
Cả cuộc đời con người là một hành trình phải tranh đấu, phải tự lực để đạt Hạnh Phúc và gạt bỏ Đau Khổ qua sự lựa chọn giữa thiện và ác, tham và không tham, lạc quan và bi quan, biết dừng lại, biết đủ, biết bằng lòng, chấp nhận, biết xét lại, biết quên mình, vì người khác.
Sở dĩ ngày nay người Việt Nam ta nói riêng và Á châu vẫn còn tôn trọng và đặt lên hàng đầu về chữ HIẾU đối với Mẹ Cha. Nói chung hầu hết người Châu Á còn giữ đựơc nề nếp, đạo đức và văn hóa gia đình, đứng đầu là Trung Hoa, Việt Nam. Mặc dù hiện nay các con đang sống tại các nước Tây phương, nhất là Mỹ xem nhẹ chữ HIẾU do ảnh hưởng đời sống vì lo chạy đua theo vật chất, nhu cầu xã hội, không còn thời gian để họ có dịp sống nhiều về gia đình cũng như nội tâm . Từ đó họ cần đòi hỏi sự phóng túng, thỏai mái mà họ cho là TỰ DO, nhưng đằng sau cái tự do là một sự hủy họai tâm linh, đạo đức đưa dần con người đi vào sa đọa, suy thóai tâm linh là chìa khóa của tội phạm, giết chóc và khủng bố. Ngày nay nước Mỹ đứng đầu Thế giới về tội phạm, nhiều nhà tù lớn nhất và chế độ tử hình vẫn còn duy trì trong khi rất nhiều nước đã từ bỏ luật này.
Để có sự bình yên trong cuộc sống, nguyên tắc đầu tiên bạn nên nhớ là sự tha thứ. Tha thứ cho người khác cũng như tha thứ cho chính mình bất kể việc bản thân và người khác đã mắc phải lỗi lầm gì đi nữa. Là con người nên đương nhiên chúng ta không thể tránh khỏi việc mắc phải lỗi lầm. Khi tha thứ cho người khác, bạn sẽ sống mà không phải bực bội và than phiền về ai. Bạn cũng nên tha thứ cho bản thân vì có trách móc, bạn cũng không thể thay đổi được mọi thứ.  
Đức Phật dạy rằng con người mang bốn trọng ơn, trong đó có ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, vì không có cha mẹ không thể có sự hiện hữu của chúng ta. Ngoài ra, chúng ta còn mang ơn thầy hiền bạn tốt giúp chúng ta hiểu được đạo lý làm người và trưởng thành trong cuộc sống. Chúng ta cũng mang ơn đất nước, đồng bào, vì chúng ta không thể tồn tại riêng lẻ một mình. Theo quan niệm ngày nay, chúng ta còn có mối quan hệ tồn tại với thiên nhiên gọi là môi trường và quan hệ với muôn loài, với vạn vật.  
Nếu việc "cho" và "nhận" là một quy luật thì trong tình cảm, việc "cho" và "nhận" lại là bất quy luật nhất, quá trình này không phải lúc nào cũng hai chiều và tác động qua lại. Có người suốt cuộc đời chỉ chuyên "cho" đi, lo lắng, quan tâm, chăm sóc, hy sinh cho người khác nhưng cũng có nhiều bộ phận trong giới trẻ quen thói hưởng thụ, chuyên "nhận" mà không cần quan tâm, đoái hoài đến người khác, rất vô tâm và "nhận" một cách vô tư, coi việc "nhận" ấy là đương nhiên phải thế. Nói như thế không phải vơ đũa cả nắm, nhưng có rất nhiều người hạnh phúc khi được "cho" đi, nhưng cũng có nhiều người được "nhận" mà không cảm thấy sung sướng.
Vào tuổi trên hai mươi, đức Phật đã từ bỏ gia đình và quê hương của Ngài nằm ở chân dãy núi Hi-mã-lạp-sơn, để khởi đầu môt hành trình tư tưởng đầy hoài bão nhằm tìm kiếm giải pháp cho nỗi khổ niềm đau của con người.
Kinh Hải Đảo Tự Thân (kinh 639 Tạp A Hàm) là một trong những kinh rất quan trọng được Đức Phật nói khoảng một tháng trước khi Ngài nhập Niết bàn. Trong kinh này Phật đã ân cần dạy các hàng đệ tử rằng: “Này quí vị! Chính tôi chẳng bao lâu nữa cũng sẽ ra đi, vì vậy quí vị phải thực tập làm hải đảo nương tựa cho chính quí vị, hãy biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác, phải thực tập nương tựa vào hải đảo chánh pháp mà đừng nương tựa vào một hải đảo nào khác hay một ai khác”. Đây là những lời dạy vô cùng thâm thiết mà Đức Phật đã ân cần dặn dò với tất cả chúng ta. Chúng ta phải học hỏi và tu tập như thế nào để mình có thể là nơi nương tựa an toàn và vững vàng cho chính mình và những người xung quanh đó là tất cả những gì mà Đức Phật mong ước.
Bố là chia bày ra, thí là trao tặng, cho. Bố thí là đem năng lực vật chất như của cải tiền bạc của mình hiến dâng chia tặng cho người, hoặc đem trí tuệ như giảng nói các điều hay lẽ phải trong đời sống, đem các chân lý do Phật dạy giải thích lại cho người. Bố thí được xem như phương tiện đối trị tính bỏn sẻn tham lam ích kỉ, và thể hiện lòng bác ái từ bi. Đây là: những việc làm để nuôi dưỡng công đức cho người bố thí.  Bố thí được dùng chung cho mọi người, nó bao gồm sự giúp đỡ những kẻ nghèo đói bệnh tật hoạn nạn, những người cần sự giúp đỡ về một phương diện nào đó, như hành động bố thí thức ăn, tiền bạc vật dụng phẩm vật cho các vị Khất sĩ, các tịnh thất, chùa; ngược lại Tăng Ni giải thích các lời Phật dạyvà hướng dẫn tu hành cho các Phật tử tại gia cũng gọi là bố thí. Đối với người tu hành, vì được kính trọng nên bố thí được gọi là cúng dường, cúng dàng Phật, cúng Tam Bảo, cúng dường trai Tăng, cúng chùa v.v…Tất cả các hành động bố thí cúng dàng đều được xem là để nuôi dưỡng phúc đức.
Nếu lúc thần trí hôn trầm , hay khi vọng tưởng đua khởi, hãy nên trấn tỉnh tinh thần, to tiếng niệm Phật, niệm cho được vài ba trăm tiếng tự nhiên đổi thành cảnh giới an tịnh. Bởi vì nhĩ căn thính lắm, nên ngoại duyên dễ vào, tiếng làm cho tâm động, tạp tướng nổi dậy, nên phải to tướng niệm Phật để giữ gìn nhĩ căn, hầu mở tỏ tâm linh. Bấy giờ tâm chỉ nghe tiếng của chính mình, mỗi tiếng liên tục, đầy đủ, tất cả những gì phải quấy, nên, hư tự nhiên phóng xả.
Niệm Phật một tiếng, tay lần một hột. Chỉ nên niệm bốn chữ, đừng lộn sáu chữ, vì bốn chữ rất dễ thành khối . Trong bốn chữ A Di Ðà Phật, hoặc lần chuổi tại chữ A, hoặc lần tại chữ Ðà, hoạch định cho có phép tắc, không được lầm lẫn, đây là pháp mượn chuổi để nhiếp tâm vậy.
Ðã đem thân này niệm Phật, thời trong mọi lúc cũng như trong mọi cử chỉ: đi, đứng, ngồi, nằm, thân cần phải đoan chánh thì tâm mới được thanh tịnh. Người niệm Phật nên tự nghiệm điều này, thật không bao giờ dối.
Ðã dùng miệng này niệm Phật, phàm tất cả những việc SÁT, ÐẠO, DÂM, VỌNG không nên buông lời nói càng, nói quấy. Một khi nói lỡ, nên tự nghĩ rằng: người niệm Phật không nên nói như thế, rồi cố gắng niệm lớn ít tiếng danh hiệu Phật để trấn áp tâm mình và gột tẩy ngay những lời bất thiện ấy.
Ðã đem tâm này niệm Phật, phàm tất cả việc tạp thiện, tạp ác đều không nên nhớ, tức hàng ngày chỉ nên làm mọi việc với ý niệm vạn bất đắc dĩ, xong rồi thì xả, đừng để day dích, sẽ chướng ngại tâm niệm của chúng ta. Vả lại, sở dĩ tâm niệm của chúng ta cứ còn dây dưa mãi với những tạp thiện, tạp ác là vì ý địa chưa thuần; nếu ta niệm Phật đến lúc tâm địa sáng tỏ, thời ý địa tự nhiên chuyên ròng nơi quán sát, không duyên tạp sự. Phải biết, niệm Phật có thể chuyển Phàm thành Thánh, là phương tiện giải thoát thứ nhứt của thế gian và xuất thế gian vậy.
Đời sống không thể thiếu vắng mặt đi những đạo pháp. Bởi đạo chính là những món ăn tinh thần giúp nuôi dưỡng đạo đức của con người. Khi xã hội ngày một phát triển, sự bất cập về tệ nạn càng nhiều hơn, những bi thảm, oan trái cuộc đời khiến người ta không khỏi rùng mình: Con giết mẹ, chồng giết vợ, người yêu giết nhau,…oan oan tương báo. Khi ấy, pháp luật chỉ đóng vai trò là đòn roi xử phạt, răng dạy bằng những điều luật, nhưng đạo pháp sẽ răng dạy bằng đạo đức. Có câu “ Ý dẫn đầu các pháp”. Đạo Phật không bỏ tù, hành hạ thể xác một ai nhưng sẽ nhẹ nhàng  giúp con người nhận diện ra những lỗi lầm, sai trái mà tự chuyển hóa thân tâm.
Theo Ðại Thừa Phật giáo thì một thầy tu là người đa phát nguyện tự lợi, lợi tha, đi vào cuộc đời để cứu nhân độ thế. Ngay cả người cư sĩ sống trong đời cũng chưa chắc hiểu được cuộc đời. Một thầy tu có thể nghiên cứu tâm lý học, phân tâm học, xã hội học, nhân chủng học, v.v… để hiểu rõ những căn bệnh của con người và cũng để dễ dàng độ sinh hơn. Người cư sĩ tại gia hãy còn sống với gia đình, nay học cách thức làm sao cho gia đình được hạnh phúc, đó không phải là tu hay sao?
Đạo Phật có mặt để lắng nghe rồi xoa dịu đi những tâm tư của chúng ta bằng những bài pháp mầu nhiệm của Đức Phật. Đó không phải là thần chú, là phép màu mà là những lời khuyên chân thành, những bài học về chân lý của vũ trụ để chúng ta nhận ra, hiểu được lẽ thường tình của cuộc đời và chấp nhận chúng, chuyển hóa chúng.
Ðức Phật chỉ dạy - phương pháp này là một hệ thống giáo dục thực tiễn về mở mang tâm trí, được thế giới biết đến từ 25 thế kỷ qua, chứ không phải là một phương pháp trừu tượng, suy tưởng hay siệu hình. Phương pháp này cũng được gọi là con đường Trung đạo, con đường chính đáng của đời sống, một hệ thống triết lý đạo đức, một phương pháp tự mình thực hành lấy, được công nhận là con đường giải thoát và hữu lý. Phương pháp này dạy chúng ta 3 điều: không làm điều xấu, sẳn sàng giúp đỡ người khác và giữ tâm trí thanh tịnh - lành mạnh.
Phật dạy: "Phật pháp tại thế gian, không ngoài thế gian mà giác ngộ. Nếu lìa thế gian để tìm cầu Bồ Ðề, không khác nào người đi tìm lông rùa sừng thỏ, vì đó là việc không bao giờ có" (Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly mịch Bồ Ðề, cáp như tầm thố giác - Bảo đàn Kinh). Ðạo Phật ra đời để phụng sự con người, rời con người đạo Phật hết sứ mạng.
Ðạo Phật là nguồn sống và lẽ sống của con người, là cương lĩnh cho nhân thế. Với sứ mạng thiêng liêng cao đẹp ấy, đạo Phật không xa lìa thực thể khổ đau của con người. Ðạo Phật đối diện cùng đau khổ, tìm ra những phương thức linh diệu diệt trừ đau khổ, đem lại sự an vui hạnh phúc cho nhân thế, giúp con người xây dựng cuộc sống Chân-Thiện-Mỹ.
Pháp thoại: Pháp Môn Tịnh Độ (phần 02) do Hòa thượng Giác Khang thuyết giảng tại Chùa Phước Thành tỉnh Trà Vinh - khóa tu Phật thất lần thứ 25 từ ngày 10-17/10/2009 (nhằm ngày 22-29/08/Kỷ Sửu).
Pháp thoại: Pháp Môn Tịnh Độ (phần 01) do Hòa thượng Giác Khang thuyết giảng tại Chùa Phước Thành tỉnh Trà Vinh - Khóa tu Phật thất lần thứ 24 từ ngày 09-16/08/2009 (nhằm ngày 19-26/06/Kỷ Sửu).
Thượng tọa đã giải đáp các thắc mắc liên quan đến giáo lý một cách sâu sắc nhất qua những đề tài như Đức Phật, nhân quả, nghiệp báo,...
Ðức Phật với thiên nhĩ thông, từ xa nghe tiếng đứa bé niệm danh hiệu của Ngài cầu cứu, bèn lập tức dùng thần thông đến chỗ đồng hoang, phóng ánh sáng hào quang màu trắng để bảo vệ đứa bé. Quỷ vương thấy đức Phật quang lâm nhưng không hề cảm thấy sợ hãi. Hào quang màu trắng của đức Phật càng làm tăng thêm ngọn lửa sân khuể trong lòng hắn, khiến hắn nổi xung thiên lồng lộn lên, nhấc một tảng đá lớn toan ném tới đức Phật. Nhưng đức Phật đã nhập Hỏa Quang Tam muội, dùng lửa đốt sạch đồng hoang, ngọn lửa mãnh liệt ngùn ngụt cháy chiếu thấu suốt cả quả đất, và trong ánh sáng ấy lại có hóa hiện vô số ức đức hóa Phật. Thế mà quỷ vương ác độc và khó độ vẫn không hề tàm quý, vẫn không chịu hàng phục. Lúc ấy, có một vị thần Kim Cang thấy tình trạng như thế, vô cùng tức giận, một tay cầm chày kim cương, một tay múa một cây kiếm sắc lớn, hướng tới quỷ vương phác cử chỉ chém xuống đầu hắn.
Đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”, chúng ta hãy nương tựa chính mình, bởi vì ta là người tạo ra việc làm tốt xấu, rồi gặt hái kết quả khổ đau hay hạnh phúc.Cầu nguyện hay mong muốn trước hình ảnh Đức Phật hay thỉnh các vị thầy để cầu xin được an vui hạnh phúc và phát đạt về mọi mặt là không thể được. Bởi vì sao? Nhân quả là nền tảng của đạo Phật cho nên ta phải tránh làm điều ác, mà hãy siêng năng làm việc lành và giữ tâm ý luôn trong sạch.
"Hãy yêu cả thế giới như tình yêu của người mẹ dành cho con mình" Tình yêu thương không giới hạn trong số bạn bè, người thân, nó còn là tình người, tình nhân loại. Đa phần trong chúng ta cho rằng gia đình là điều duy nhất mà mỗi người cần dành thời gian và nỗ lực để vun vén, chăm sóc. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta coi cả thế giới như là gia đình của mình? Khi đó, mỗi người sẽ mở rộng lòng mình, trao đi sự yêu thương và luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, thế giới sẽ thực sự khác biệt và trở nên tươi đẹp hơn bao giờ hết.
"Nếu thật sự yêu bản thân mình, bạn sẽ không bao giờ làm tổn thương người khác" Bước đầu tiên trong hành trình tìm kiếm tình yêu thật sự là bạn cần tự yêu lấy bản thân mình. Khi đó, bạn tạo ra nền tảng vững chắc cho mối quan hệ lâu dài, trải lòng với nửa kia để họ có thể hiểu bạn một cách sâu sắc. Khi biết yêu bản thân, bạn dễ dàng cảm nhận được tình yêu thương của những người xung quanh dành cho mình. Bởi vì, tất cả chúng ta đều có sự gắn kết vô hình, về mặt tâm linh, chúng ta là một.
Ngừng việc góp nhặt những niềm vui nhất thời, hãy tìm kiếm hạnh phúc thực sự của cuộc sống Một trong những khái niệm quan trọng của đạo Phật là "Dukkha", nghĩa là một sự bất an, không có khả năng cảm thấy hài lòng. Khái niệm này đề cập đến sự thèm muốn những điều xa vời, không bao giờ có thể thỏa mãn được của con người.  Chúng ta tìm kiếm sự giàu có, thành công, quyền lực... nhưng những thứ này chỉ có thể đem đến cho bạn niềm vui ngắn hạn. Hơn nữa, sự khao khát này thực sự có thể cản trở chúng ta trong việc tìm kiếm hạnh phúc đích thực, vĩnh viễn. Phật giáo khuyến khích con người suy nghĩ về những điều hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.
Bạch Y Quán Âm còn gọi là Bạch Y Ðại Sĩ, hình của Ngài mặc y trắng đứng trên hoa sen trắng, tay cầm tịnh bình và cành dương liễu. Hình tượng nầy, ta thường thấy người ta tôn thờ Ngài ở ngoài trời, gọi là Quan Âm lộ thiên. Hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm là hạnh nguyện lắng nghe từ bi cứu khổ. Vì ngay danh hiệu của Ngài cũng đã nói lên cái ý nghĩa đó. Quán Thế Âm có nghĩa là quan sát tiếng tăm kêu than thống khổ của người đời mà Ngài hiện thân đến để cứu độ cho họ vượt qua mọi khổ nạn. Ðó là hạnh nguyện vị tha lớn lao trùm khắp pháp giới của Ngài. Bồ tát thì lúc nào cũng sẵn sàng cứu khổ chúng sanh, nhưng chúng sanh khi nào gặp khổ nạn thì mới tưởng nhớ đến Bồ tát. Còn khi ách nạn qua đi, thì họ ít khi nào nghĩ đến. Ðó là căn bệnh nghiệp chướng ích kỷ sâu dày của chúng sanh. Lý do họ niệm là vì sợ chết mà niệm. Niệm để được thoát chết hoặc để được toại nguyện theo một nhu cầu thiết yếu mong muốn nào đó của họ. Kỳ thật, không phải họ niệm vì muốn tu hành để được giác ngộ và giải thoát. 
Tịnh độ của Đức Phật hiện hữu trong từng suy nghĩ, trong từng việc làm với tâm từ bi và tuệ giác của Ngài...  Khi Đức Phật an trụ trong Thiền định dưới cội Bồ Đề và thành tựu quả vị Vô  thượng Chánh đẳng giác, bấy giờ, Tịnh độ mười phương hiện ra trước Ngài. Có thể nói, Tịnh độ của Đức Phật hiện hữu trong từng suy nghĩ, trong từng việc làm với tâm từ bi và tuệ giác của Ngài.  
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây. Thấy rõ như vậy để biết rằng những gì mà mình hay nhận lầm là ta và của ta, là vĩnh hằng bất biến, thực ra không có gì bền chắc cả.
Theo giáo lý Nghiệp của đạo Phật, mỗi người đều thừa tự nghiệp của chính mình. Nghiệp là những tạo tác, hành động có tác ý. Nghiệp do mình tạo ra và trở lại chi phốichính mình. Nghiệp có biệt nghiệp (nghiệp riêng) và cộng nghiệp (nghiệp chung). Hai loại nghiệp này có liên hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau.
Hòa thượng chia sẻ chuyên đề pháp chế, vai trò trách nhiệm tu tập hàng ngày, hộ trì tam bảo,lấy đạo đức làm căn bản, cư xử tốt với nhau, tâm thành kính các bậc tôn Sư. Bên cạnh đó Ngài cũng nhắn gửi thêm cho người xuất gia không tham muốn danh lợi, không phiền não, tinh tấn trong đường lối tu tập hành trì đến bờ giác ngộ, tăng trưởng niềm tin nơi đạo tràng, nâng cao tâm đức người xuất gia, luôn luôn có lý tưởng giải thoát rốt ráo.
Bệnh trầm cảm có thể phát sinh từ một trường hợp có lý do rõ rệt và bạn có thể áp dụng một pháp thiền định phù hợp để giải tỏa trường hợp đặc biệt đó. Tuy nhiên, bệnh trầm cảm và nỗi tuyệt vọng của bệnh nhân nhiều khi nổi lên mà không có một lý do cụ thể nào cả. Khi đang mắc phải bệnh trầm cảm, bạn nên tự chuẩn bị cho mình vào mỗi buổi sáng bằng cách hạ quyết tâm không để cho trạng thái trầm cảm này tác động và gây rối loạn cho mình. Việc sinh khởi quyết tâm chịu đựng trạng thái này là rất quan trọng, vì nó sẽ giúp bạn có thêm sức mạnh và sự can đảm. Đồng thời hãy phát khởi quyết tâm mạnh mẽ chuyển hóa nỗi u uất trầm cảm thành hạnh phúc. 
Sáng 19/10/2018 (nhằm ngày 11/9 năm Mậu Tuất), chư Tôn đức Giáo phẩm Hệ phái và hơn 150 hành giả đã tham dự lễ Bế mạc kết thúc Khóa tu Truyền thống lần thứ 26 tại vùng đất Tây Nguyên (TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai). Tham dự chứng minh buổi lễ có: HT. Giác Giới, Phó Thư ký HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái – Thiền chủ; Hòa thượng Giác Hùng, Giáo phẩm Hệ phái, chứng minh Ban Trị sự GĐ III; HT. Giác Pháp, Uỷ viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, Phó Trưởng ban Nghi lễ Trung ương, Phó Ban Giáo phẩm kiêm Chánh Thư ký Hệ phái, Trưởng ban giám luật của Khóa tu; HT. Giác Trong, Phó BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự Phó Giáo đoàn III; HT. Giác Trí, Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự Phó Giáo đoàn III; HT. Giác Thành, Chứng minh BTS GHPGVN tỉnh Gia Lai, Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự Phó Giáo đoàn III, Trụ trì Tịnh xá Ngọc Yên, kiêm Hóa chủ Khóa tu; HT. Giác Minh, Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự phó Giáo đoàn II; TT Minh Lộc, Phó Trưởng ban Từ thiện Trung ương – Trưởng phân ban Từ thiện HPKS trực thuộc TW, Giáo phẩm Hệ phái, Chánh Thư ký Giáo đoàn IV; Chư tôn Giáo phẩm các giáo đoàn, và 153 chư vị hành giả của 6 Giáo đoàn, cùng Phật tử tại các tịnh xá ở Gia Lai về tham dự .
Hàng năm, sau 9 tháng du hoá, cũng chính là lúc chư Tôn đức Tăng Ni khắp nơi vân tập về một trú xứ để cấm túc an cư, nhằm thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tiến tu Tam vô lậu học. Mùa An cư PL. 2562 – DL. 2018 chư Tăng Ni trong 6 giáo đoàn Tăng của Hệ phái Khất sĩ cũng đã trở về cấm túc An cư tại các Hạ trường của hệ phái. Tổ đình Minh Đăng Quang, là nơi sinh trưởng của đức Tổ sư Minh Đăng Quang, vị Thầy khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Nơi đây cũng là lần đầu tiên tổ chức trường hạ an cư và cũng là một trong những hạ trường đặc thù của hệ phái Khấi Sĩ.
Theo Hòa thượng, trong chơn lý “ngũ uẩn”, đức Tổ sư đã phân loại ba hạng bậc của thân, đó là thân hình đen, thân hình trắng và thân Trong sạch. Tổ sư phân định Ngũ uẩn nơi mỗi người theo một trình tự, thứ lớp, gồm 3 cấp bậc từ thấp đến cao: ác, thiện, trong sạch. Hằng ngày mỗi hành giả tu thiền cần nên soi sáng, nhìn nhận chính bản thân mình đang ở cấp độ nào, từ đó nỗ lực tu tập gạn lọc, loại bỏ dần và vượt qua thân hình đen (địa ngục) nơi sắc thân Ngũ uẩn này để tiến đến thân hình trắng (Thiên đường) và thân hình trong sạch (an tịnh Niết bàn). Từ đó Hòa thượng cho rằng, người tu tập cần soi sáng, gạn lọc thật sạch nghiệp quả xấu quấy ác nơi tự thân; Soi sáng, tu tập, tích góp sự thiện nơi tự thân; Soi sáng, trưởng dưỡng nuôi lớn sự trong sạch nơi tự thân. Hòa thượng cũng nhấn mạnh, đức Tổ sư chỉ rõ: “con đường đạt đên sự trong sạch là xuất gia giải thoát”.
Theo Hòa thượng, trong chơn lý “ngũ uẩn”, đức Tổ sư đã phân loại ba hạng bậc của thân, đó là thân hình đen, thân hình trắng và thân Trong sạch. Tổ sư phân định Ngũ uẩn nơi mỗi người theo một trình tự, thứ lớp, gồm 3 cấp bậc từ thấp đến cao: ác, thiện, trong sạch. Hằng ngày mỗi hành giả tu thiền cần nên soi sáng, nhìn nhận chính bản thân mình đang ở cấp độ nào, từ đó nỗ lực tu tập gạn lọc, loại bỏ dần và vượt qua thân hình đen (địa ngục) nơi sắc thân Ngũ uẩn này để tiến đến thân hình trắng (Thiên đường) và thân hình trong sạch (an tịnh Niết bàn). Từ đó Hòa thượng cho rằng, người tu tập cần soi sáng, gạn lọc thật sạch nghiệp quả xấu quấy ác nơi tự thân; Soi sáng, tu tập, tích góp sự thiện nơi tự thân; Soi sáng, trưởng dưỡng nuôi lớn sự trong sạch nơi tự thân. Hòa thượng cũng nhấn mạnh, đức Tổ sư chỉ rõ: “con đường đạt đên sự trong sạch là xuất gia giải thoát”.
Hòa thượng cho biết: Vấn đề tu tập thiền định là vấn đề tuy thường được đưa ra, nhưng mỗi lần chia sẻ luôn có vấn đề mới, tùy theo khía cạnh mà mỗi cá nhân tu tập cảm nhận, nắm bắt và chiêm nghiệm. Cũng giống như một gia đình làm nghề mộc thì khi cha mất, người con sẽ tiếp tục làm nghề này. Hay những gia đình làm nghề nông, nghề điêu khắc… cũng như vậy. Đối với người xuất gia thì chư Phật hay các Tổ, Thầy đều nương vào kinh, luật, luận mà chứng ngộ và hành đạo. Những thế hệ kế tiếp xuất gia sau này cũng phải như vậy. Dù xã hội có thay đổi, đời sống đã có những biến chuyển trong thời kỳ công nghệ 4.0… giúp cho con người trong mọi mặt.
Hòa thượng cho biết: Vấn đề tu tập thiền định là vấn đề tuy thường được đưa ra, nhưng mỗi lần chia sẻ luôn có vấn đề mới, tùy theo khía cạnh mà mỗi cá nhân tu tập cảm nhận, nắm bắt và chiêm nghiệm. Cũng giống như một gia đình làm nghề mộc thì khi cha mất, người con sẽ tiếp tục làm nghề này. Hay những gia đình làm nghề nông, nghề điêu khắc… cũng như vậy. Đối với người xuất gia thì chư Phật hay các Tổ, Thầy đều nương vào kinh, luật, luận mà chứng ngộ và hành đạo. Những thế hệ kế tiếp xuất gia sau này cũng phải như vậy. Dù xã hội có thay đổi, đời sống đã có những biến chuyển trong thời kỳ công nghệ 4.0… giúp cho con người trong mọi mặt.
Bài giảng tại Khóa tu Phật thất lần 87 tại Chùa Hoằng Pháp ngày 02/01/2018. Nội dung bài giảng: Trong thời pháp thoại, Hòa thượng chỉ rõ cho đại chúng về sự vô thường, kiếp người như giấc mộng, thời gian luống qua nhanh, chúng ta cần phải biết ứng dụng việc tu tập trong mọi thời gian, khi đi, đứng, nằm, ngồi. Biết quay về với tự tâm, buông bỏ, xa lìa việc xấu quấy. Luôn giữ gìn thân khẩu ý trong sạch, phiền não không còn cơ hội để phát sinh. Quyết chí tu tập trong mọi lúc vui cũng như lúc buồn. Chúng sanh thường mắc bệnh chung: Khi buồn phiền, thất bại trong cuộc sống chúng ta luôn tìm đến chùa, cầu nguyện chư Phật nhưng khi cuộc sống an vui có mấy ai nhớ đến Phật dù chỉ một câu. Từ vô thủy kiếp đến nay, do vô minh chúng ta đã tạo quá nhiều nghiệp ác: sát sanh hại vật gây bao oán thù. Nay nhờ có căn lành, gặp Phật pháp chúng ta nhận thấy những lỗi lầm mình đã tạo trong quá khứ, nguyện đoạn trừ nghiệp xấu, thường xuyên sám hối, tinh tấn tu tập hồi hướng công đức phước báu mong hóa giải những oan trái. Tu tập tâm từ, thương yêu, hỷ xả và không đổ lỗi cho người khác. Luôn giữ gìn lời nói, tránh gây khẩu nghiệp bất thiện: không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thô ác. Sáng suốt nhận diện tham sân si, khi 3 độc nổi lên chúng ta phải thấy rõ và làm chủ nó. Sau buổi pháp thoại, Hòa thượng đã giúp đại chúng có phương pháp hành trì đúng đắn, làm chủ được 3 nghiệp thân khẩu ý để từ đó chúng ta dễ dàng thẳng tiến trên bước đường tìm về bến giác, xa lìa sinh tử luân hồi.
- Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Phật có thể do đầy đủ sắc thân mà thấy chăng?  - Bạch Thế Tôn, không vậy! Như Lai không nên do đầy đủ sắc thân mà thấy. Vì cớ sao? Như Lai nói đầy đủ sắc thân tức chẳng phải đầy đủ sắc thân ấy gọi là đầy đủ sắc thân.  - Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai có thể do đầy đủ các tướng mà thấy chăng?  - Bạch Thế Tôn, không vậy! Như Lai không nên do đầy đủ các tướng mà thấy. Vì cớ sao? Như Lai nói các tướng đầy đủ tức chẳng phải đầy đủ, ấy gọi là các tướng đầy đủ.
Hòa thượng cũng nói rõ về pháp môn tu tập giới định tuệ và cách thực hành pháp môn này sao cho hiệu quả. Theo Ngài đây là pháp môn bao trùm lên tất cả các pháp môn khác. Một pháp môn mà vị Khất sĩ cần nắm rõ trên con đường tu tập tìm sự giải thoát. Đồng thời, Hòa thượng đã cùng đại chúng phân tích sâu hơn đối với các vấn đề… về pháp môn tu học, về thực hành giới định tuệ, nắm vững Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên để áp dụng trong đời sống tu tập của mỗi vị tại trú xứ, hay đối với xã hội đang phát triển như hiện nay.
Hòa thượng cũng nói rõ về pháp môn tu tập giới định tuệ và cách thực hành pháp môn này sao cho hiệu quả. Theo Ngài đây là pháp môn bao trùm lên tất cả các pháp môn khác. Một pháp môn mà vị Khất sĩ cần nắm rõ trên con đường tu tập tìm sự giải thoát. Đồng thời, Hòa thượng đã cùng đại chúng phân tích sâu hơn đối với các vấn đề… về pháp môn tu học, về thực hành giới định tuệ, nắm vững Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên để áp dụng trong đời sống tu tập của mỗi vị tại trú xứ, hay đối với xã hội đang phát triển như hiện nay.
Hòa thượng nhắc đến mục đích của đức Thế Tôn khi công bố giáo pháp. Trong đó, Hòa thượng cho rằng đức Thế Tôn đã khẳng định xuyên suốt thời gian mà Ngài đi công bố giáo pháp thì chỉ có 2 điều: “Ta không nói gì khác hơn ngoài hai điều là Ngài chỉ nói khổ và đoạn tận khổ”.  Do đó chúng ta không phải học để thỏa mãn kiến thức hay học để có cái gì đó đặc biệt hơn người, mà cái học cái tu của chúng ta phải hướng đến cái mục tiêu mà đức Phật đã chỉ dạy. Đoạn tận khổ cho mình, đoạn tận khổ cho người. Thông qua vấn đề trên, Hòa thượng cho biết dù chỉ 2 điều trên, nhưng cái cốt yếu đó là đức Phật khi giảng pháp cho ai, thì Ngài đều dựa trên niềm tin của người đó đối với mình có vững chắc hay không. Giống như câu chuyện anh em Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh với đức Phật, sau này khi gặp lại vì có niềm tin với đức Phật nên đã đắc quả A La Hán khi Ngài chuyển pháp luân đầu tiên tại vườn Nai.
Hòa thượng nhắc đến mục đích của đức Thế Tôn khi công bố giáo pháp. Trong đó, Hòa thượng cho rằng đức Thế Tôn đã khẳng định xuyên suốt thời gian mà Ngài đi công bố giáo pháp thì chỉ có 2 điều: “Ta không nói gì khác hơn ngoài hai điều là Ngài chỉ nói khổ và đoạn tận khổ”.  Do đó chúng ta không phải học để thỏa mãn kiến thức hay học để có cái gì đó đặc biệt hơn người, mà cái học cái tu của chúng ta phải hướng đến cái mục tiêu mà đức Phật đã chỉ dạy. Đoạn tận khổ cho mình, đoạn tận khổ cho người. Thông qua vấn đề trên, Hòa thượng cho biết dù chỉ 2 điều trên, nhưng cái cốt yếu đó là đức Phật khi giảng pháp cho ai, thì Ngài đều dựa trên niềm tin của người đó đối với mình có vững chắc hay không. Giống như câu chuyện anh em Kiều Trần Như cùng tu khổ hạnh với đức Phật, sau này khi gặp lại vì có niềm tin với đức Phật nên đã đắc quả A La Hán khi Ngài chuyển pháp luân đầu tiên tại vườn Nai.
- Này Tu-bồ-đề , ý ông nghĩ sao? Nếu có người đem bảy báu đầy dẫy cả tam thiên đại thiên thế giới dùng bố thí, người ấy do nhân duyên này được phước đức nhiều chăng? - Bạch Thế Tôn! Như thế! Người này do nhân duyên đó được phước đức rất nhiều. - Này Tu-bồ-đề! Nếu phước đức có thật, Như Lai chẳng nói được phước đức nhiều, do phước đức không, nên Như Lai nói được phước đức nhiều.
Không cần lo lắng là phải giữ giới như thế nào, làm sao để khỏi phạm giới, v. v. Hãy tự nhiên trong mọi tác động. Không quá lo lắng về giới luật sẽ khiến bạn khỏi suy nghĩ. Thay vào đó bạn chỉ cần chú tâm chánh niệm là đủ. Giới luật giúp chúng ta cùng sống hoà hợp với mọi người, một cuộc sống êm thắm, hài hoà. Giới luật là những viên gạch lót đường để tiến đến định tâm và phát triển trí tuệ. Giữ giới luật và hành hạnh đầu đà khiến chúng ta sống đời sống đơn giản, không bám víu vào vật chất và của sở hữu. Do đó, sống ở đây chúng ta có thể thực hành trọn vẹn những lời dạy của Đức Phật: tránh xa điều ác, làm điều lành, sống đơn giản (chỉ sử dụng những nhu cầu vật chất cần thiết), thanh lọc tâm. Muốn thế chỉ cần chú tâm theo dõi mọi tác động của thân và tâm bạn trong mọi oai nghi
Đời người như một dòng sông/ Xanh trong mắt nhìn, nhưng đục ngầu nơi đáy nước/ Ai trong tâm chẳng mang vài vết xước/ Xuôi ngược ở đời, ai thấu được lòng ai?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Trong các cõi nước đầy dẫy như thế, có tất cả chúng sanh có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai thảy đều biết. Vì cớ sao? Như Lai nói các tâm đều không phải tâm, ấy gọi là tâm. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được.
Sáng nay, 12-10, tại tịnh xá Ngọc Yên (P.Yên Thế, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai), khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 26 do Giáo đoàn III tổ chức đã khai mạc, bắt đầu tu học từ ngày 4 tới 11-9-Mậu Tuất. HT.Giác Giới, Phó Thư ký HĐCM, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái đương vi Thiền chủ; HT.Giác Cầu, Thành viên HĐCM, Giáo phẩm chứng minh Hệ phái cùng chư tôn thiền đức chứng minh, lãnh đạo Giáo đoàn II, III; giáo phẩm Phật giáo tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Bình Định, Phú Yên… và hơn 150 hành giả của 6 Giáo đoàn, cùng các Phật tử tại địa phương tham dự, chứng minh. TT.Giác Duyên, Thư ký khóa tu đã cung thỉnh chư tôn đức giáo phẩm vào Chức sự của khóa tu với 4 vị chứng minh là Giáo phẩm chứng minh của Hệ phái gồm HT.Giác Tường, UVTT HĐCM; HT.Giác Giới, Phó Thư ký HĐCM - Thiền chủ; HT.Giác Ngộ, HT.Giác Cầu - đồng Thành viên HĐCM; HT.Giác Toàn - Trưởng ban Tổ chức khóa tu cùng chư tôn đức Phó ban Tổ chức, Ban Giáo thọ, Ban Giám luật, Ban Giám thiền, Ban Kiểm soát, Ban Thư ký, Ban Điển lễ, Ngoại hộ…  
Bản chất tự nhiên khiến chúng ta mất nhiều thời gian suy nghĩ tiêu cực mà chẳng đem lại lợi ích gì cho cuộc sống. Khi chúng ta đối mặt với những cảm xúc tiêu cực này, chúng sẽ trở nên nguy hiểm hơn nhiều vì sức lan tỏa nhanh chóng và gây nên sự u sầu. Những suy nghĩ tiêu cực như sự ai oán, phẫn uất, đố kỵ và ghen ghét hoàn toàn không có lợi mà còn khiến chúng ta trở nên đáng thương thảm hại. Con người có khả năng kiểm soát suy nghĩ rất tốt vì vậy hãy chọn cách giảm những suy nghĩ và cảm giác tiêu cực đi. Học cách tha thứ, suy nghĩ và nhìn vào những khía cạnh tích cực của cuộc sống.
Này các Tỷ-kheo do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra. 
"Tôi sẽ không nóng giận lúc này. Lửa không phải là công cụ tôi muốn sử dụng." Sau đó hãy tự hỏi, sự nóng giận đến từ đâu? Đức Phật nói hầu hết sự nóng giận đến từ nỗi mong cầu bị thất vọng. Ví dụ như bạn muốn người ta nhận biết về bạn. Nhìn vào đó và hỏi, "Ai là 'tôi' trong đó muốn được nổi tiếng?" Nó là một 'tôi' hão huyền, một 'tôi' khuôn khổ. Tại sao không tùy hỷ một cách sung sướng cho những người được thừa nhận? Sự mong cầu không còn thì sự nóng giận sẽ tan biến.
Này Tu-bồ-đề! Bồ-tát cũng như thế, nếu nói lời thế này: Ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, ắt không gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Thật không có pháp tên là Bồ-tát. Thế nên Phật nói: tất cả pháp không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói lời thế này: Ta sẽ trang nghiêm cõi Phật, ấy chẳng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao? Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi đó là chân thật Bồ-tát.
Con người không tồn tại, thế giới mà con người nhận thức được cũng không tồn tại. Tất cả chỉ là giả hợp, hiện hữu tạm thời, đang chuyển biến, đi đến hoại diệt, không tồn tại mãi. Nhận lầm những gì không phải của mình hay không thuộc về mình thì phiền muộn đã đành, ngay cả những gì được xem là của mình, được chấp nhận là thuộc  về mình đi nữa mà bám chấp vào nó cũng không tránh khỏi khổ đau. Nhận thức được như thế thì mới hết mê lầm, mới thấy rõ nắm giữ là một ý tưởng mệt mỏi, mới mạnh mẽ đi đến từ bỏ.
Cảm ơn đời cho tôi nhiều tình bạn/ Chia sẻ nhau lúc hoạn nạn khó khăn/ Cùng vượt qua những gian khổ nhọc nhằn/ Giúp phai nhạt bao vết hằn dĩ vãng. Cảm ơn đời cho tôi những ngày tháng/ Giận ghét thương cay đắng nhất trên đời/ Bao lụy phiền hụt hẫng lắm chơi vơi/ Những bịn rịn không xa rời nhau được.
Xung quanh ta còn biết bao người kém may mắn, bất hạnh, khó khăn, vì vậy chúng ta “cần có một tấm lòng”, một tấm lòng chân thành luôn sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ yêu thương với mọi người. Những điều ta được hưởng hàng ngày đối với ta có thể là điều tất yếu, đương nhiên, nhưng có thể với một số người đó là mong muốn, là khát khao để đến với một cuộc sống trọn vẹn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, bậc Đạo sư thuyết pháp cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của họ, vì thương tưởng họ, nói rằng: “Đây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông”. Một số đệ tử bậc Đạo sư ấy không có khéo nghe, không có lóng tai, không có an trú tâm vào chánh trí, và hành động ngược lại lời dạy của bậc Đạo sư. Có một số đệ tử khéo nghe, lóng tai, an trú tâm vào chánh trí, và không hành động ngược lại lời dạy của bậc Đạo sư. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai không có hoan hỷ, không có cảm giác hoan hỷ, không có không hoan hỷ, không có cảm giác không hoan hỷ; sau khi đoạn bỏ cả hai, hoan hỷ và không hoan hỷ, Như Lai trú xả, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm xứ hai, một bậc Thánh phải thực hành... (như trên)... diễn giảng đồ chúng.
Có hay không một cõi Cực Lạc ở phương Tây? Đối với vấn đề này bản thân người viết cũng có những suy tư. Nay xin được sẻ chia, để gọi là sách tấn nhau trên đường tu tập vậy.
Khi được nói đến: “Có ba niệm xứ mà một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành (niệm xứ) ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Đạo sư diễn giảng đồ chúng”, do duyên gì, được nói đến như vậy? Ở đây, này các Tỷ-kheo, bậc Đạo sư thuyết pháp cho các đệ tử, vì lòng từ mẫn, vì lo cho hạnh phúc của họ, vì thương tưởng họ, nói rằng: “Đây là hạnh phúc cho các Ông, đây là an lạc cho các Ông”. Một số đệ tử của bậc Đạo sư ấy không có khéo nghe, không có lóng tai, không có an trú tâm vào chánh trí, và hành động ngược lại lời dạy của bậc Đạo sư. Tại đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai không có hoan hỷ, không có cảm giác hoan hỷ, nhưng sống không có dao động, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, đây là niệm xứ thứ nhất, một bậc Thánh phải thực hành, và có thực hành niệm xứ ấy, bậc Thánh mới xứng là bậc Đạo sư diễn giảng đồ chúng.
Cuộc đời chẳng khác mấy so với một chuyến xe. Và chúng ta là hành khách... Chúng ta sinh ra, nghĩa là chúng ta đã bước lên chuyến xe cuộc đời của chính mình. Mọi cuộc hành trình đều bắt đầu từ việc cập bến và sau đó là rời bến... mang đến không ít niềm vui cũng như để lại sau lưng khá nhiều nỗi buồn. Kèm theo nó là những điều thú vị bất ngờ nhưng cũng đầy rẫy rủi ro!
Này các Tỷ-kheo, có xả đa diện, y cứ đa diện; có xả nhứt diện, y cứ nhứt diện. Này các Tỷ-kheo, thế nào là xả đa diện, y cứ đa diện? Này các Tỷ-kheo, có xả đối với các sắc pháp, có xả đối với các tiếng, có xả đối với các hương, có xả đối với các vị có xả đối với các xúc. Như vậy, này các Tỷ-kheo là xả đa diện, y cứ đa diện. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xả nhứt diện, y cứ nhứt diện? Có xả y cứ Hư không vô biên xứ, có xả y cứ Thức vô biên xứ, có xả y cứ Vô sở hữu xứ, có xả y cứ Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo là xả nhứt diện, y cứ nhứt diện. Ở đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên xả nhứt diện, xả y cứ nhứt diện, đoạn tận vượt qua xả đa diện, xả y cứ đa diện. Như vậy là sự đoạn tận (xả) này, như vậy là sự vượt qua (xả) này. Này các Tỷ-kheo, do y cứ không tham dục, do duyên không tham dục, đoạn tận, vượt qua xả nhứt diện, xả y cứ nhứt diện ấy. Như vậy là sự đoạn tận (xả) này, như vậy là sự vượt qua (xả) này. Khi được nói đến “Tại đây do y cứ cái này, đoạn tận cái này”, chính do duyên này, được nói đến như vậy.
Lại nữa, này Tu-bồ-đề! Nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị người khinh chê, người này do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa trong đường ác, do đời này bị người khinh chê nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt, sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề, ta nhớthuở quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ở trước đức Phật Nhiên Đăng, ta được gặp tám trăm bốn ngàn muôn ức na-do-tha các đức Phật, ta đều cúng dường thờ phụng không sót một vị nào. Nếu lại có người ở đời mạt pháp sau này hay thọ trì đọc tụng kinh này, được công đức, đối với công đức cúng dường chư Phật của ta, trăm phần chẳng bằng một, ngàn muôn ức phần cho đến toán số thí dụ đều không thể bằng.
Khổ - Dukkha được thể hiện qua 3 hình thức. Hình thức thứ nhất đơn giản là khổ “bình thường”, gây cho con người sự đau đớn về thân xác. Nó cũng là nỗi đau tinh thần: buồn phiền vì không đạt được điều mong muốn; sầu não khi xa cách người yêu mến hoặc mất đi những hoàn cảnh sung sướng. Nó cũng là nhiều tình huống đau đớn mà rõ ràng con người ta đều phải gặp: sinh, già và chết. Nền tảng của hạnh phúc là ý thức rằng không có thú vui hoặc khoái lạc nào mãi mãi vững bền. Dù sớm hoặc muộn, sự thăng trầm của cuộc đời sẽ mang lại sự thay đổi. Có một câu trong Phật giáo nói rằng ngay trong tiếng cười cũng có tiếng khóc, vì rằng tất cả tiếng cười đều vô thường. Tính chất bất ổn này nằm trong loại khổ thứ hai, là sự bất mãn vì thay đổi.
Khi được nói đến “Ở đây, do y cứ cái này, đoạn tận cái này”, do duyên gì, được nói đến như vậy? Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ do duyên sáu hỷ liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua sáu hỷ liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn tận chúng; như vậy là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu ưu liên hệ xuất ly; đoạn tận, vượt qua sáu ưu liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn tận chúng; như vậy là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu xả liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua sáu xả liên hệ tại gia. Như vậy là sự đoạn tận chúng, là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên sáu hỷ liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua sáu ưu liên hệ xuất ly. Như vậy là sự đoạn tận chúng, là sự vượt qua chúng. Tại đây, này các Tỷ-kheo, do y cứ, do duyên xả liên hệ xuất ly, đoạn tận, vượt qua sáu hỷ liên hệ xuất ly. Như vậy là sự đoạn tận chúng, là sự vượt qua chúng.
Ở đây, thế nào là sáu xả liên hệ xuất ly? Sau khi biết sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt, nghĩ rằng: “Các sắc pháp xưa kia và sắc pháp hiện tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại”. Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, xả khởi lên. Loại xả như vậy được gọi là xả liên hệ xuất ly. Sau khi biết được các tiếng... (như trên)...; các hương... (như trên)... các vị... (như trên)... các xúc... (như trên)... các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt, nghĩ rằng: “Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp là vô thường, khổ, biến, hoại”. Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, xả khởi lên. Loại xả như vậy được gọi là xả liên hệ xuất ly. Sáu xả này liên hệ xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu xả liên hệ tại gia? Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu thấy sắc với con mắt, xả khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục được (phiền não), không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Loại xả như vậy không vượt khỏi sắc pháp. Do vậy, đây được gọi là xả liên hệ tại gia. Khi một người ngu si, ám độn, phàm phu nghe tiếng với tai... (như trên)...; ngửi hương với mũi... (như trên)...; nếm vị với lưỡi... (như trên)...; cảm xúc với thân... (như trên)...; nhận thức pháp với ý, xả khởi lên của một vô văn phàm phu, không chinh phục được (phiền não), không chinh phục được quả dị thục, không thấy sự nguy hiểm. Loại xả như vậy không vượt khỏi các pháp. Do vậy, đây được gọi là xả liên hệ tại gia. Sáu xả này liên hệ tại gia.
Hiện nay chúng ta đang cử hành Ðịa Tạng Thất, ai có chơn tâm thì người ấy sẽ có cảm ứng, ai có thành ý thì người đó sẽ có thọ dụng. Sự thọ dụng nầy không phải là đắc được thần thông diệu dụng, mà là tâm mình được thanh tịnh, hết vọng tưởng. Khi vọng tưởng hết thì mình sẽ có cảnh giới cảm ứng đạo giao hiện tiền. Có người nói: “Bình an là cảm ứng; biết lỗi lầm cũng là cảm ứng; so với lúc xưa tôi hiểu biết rõ ràng hơn, đó cũng là cảm ứng; so với trước kia tôi siêng năng nổ lực hơn, đó cũng là cảm ứng.” Nói như vậy cũng không sai, chung chung là như vậy.
Tu-bồ-đề! Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, sơ nhật phần, dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, trung nhật phần phục dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu nhật phần diệc dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí. Như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì độc tụng vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, vô biên công đức, Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết. Nhược hữu nhân năng thọ trì độc tụng, quảng vị nhân thuyết, Như Lai tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xứng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng tắc vi hà đảm Như Lai A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ độc tụng, vị nhân giải thuyết. Tu-bồ-đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhất thiết thế gian thiên, nhân, a-tu-la sở ưng cúng dường. Đương tri thử xứ tắc vi thị tháp, giai ưng cung kính tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ.
Ở đây, thế nào là sáu ưu liên hệ đến xuất ly? Sau khi biết được các sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt và nghĩ rằng: “Các sắc pháp xưa kia và các sắc pháp hiện tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại”. Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, vị ấy khởi lên ước muốn đối với vô thượng giải thoát, nghĩ rằng: “Khi nào ta có thể chứng đạt và an trú trong xứ (ayatana) mà các bậc Thánh đang chứng đạt và an trú?”Như vậy, do ước muốn đối với các vô thượng giải thoát, ưu khởi lên do duyên ước muốn. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ xuất ly. Sau khi biết được các tiếng... (như trên)... các hương... (như trên)... các vị... (như trên)... các xúc... (như trên)... các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt và nghĩ rằng: “Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp là vô thường, khổ, biến hoại”. Sau khi sự thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, vị ấy khởi lên ước muốn đối với các vô thượng giải thoát, nghĩ rằng: “Khi nào ta có thể chứng đạt và an trú trong xứ (ayatana) mà các bậc Thánh đang chứng đạt và an trú?”Như vậy, do ước muốn đối với các vô thượng giải thoát, ưu khởi lên do duyên ước muốn. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ xuất ly. Sáu ưu này liên hệ xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu ưu liên hệ tại gia? Có ưu khởi lên; hoặc do không nhận được hay thấy sự không nhận được các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì không nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ tại gia. Có ưu khởi lên, hoặc do không nhận được hay thấy sự không nhận được các tiếng do tai nhận thức... (như trên)... các hương do mũi nhận thức... (như trên)... các vị do lưỡi nhận thức... (như trên)... các xúc do thân nhận thức... (như trên)... các pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì không nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại ưu như vậy được gọi là ưu liên hệ đến tại gia. Sáu ưu này liên hệ đến tại gia.
Ở đây, thế nào là sáu hỷ liên hệ đến xuất ly? Sau khi biết các sắc pháp là vô thường, biến hoại, ly tham, biến diệt và nghĩ rằng: “Các sắc pháp xưa kia và các sắc pháp hiện tại, tất cả sắc pháp là vô thường, khổ, biến hoại”. Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, có hỷ khởi lên. Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ đến xuất ly. Sau khi biết được các tiếng... (như trên)...; các hương... (như trên)... các vị... (như trên)... các xúc... (như trên)... các pháp là vô thường, biến hoại, ly dục, biến diệt và nghĩ rằng: “Các pháp xưa kia và các pháp hiện tại, tất cả các pháp là vô thường, khổ, biến hoại”. Sau khi như thật thấy như vậy với chánh trí tuệ, có hỷ khởi lên. Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ đến xuất ly. Sáu hỷ này liên hệ đến xuất ly.
Ở đây, thế nào là sáu hỷ liên hệ tại gia? Có hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay thấy sự nhận được các sắc do con mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì đã nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ tại gia. Có hỷ khởi lên, hoặc do nhận được hay thấy sự nhận được các tiếng do tai nhận thức... (như trên)... các hương do mũi nhận thức … (như trên) … các vị do lưỡi nhận thức... (như trên)... các xúc do thân nhận thức... (như trên)... các pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý liên hệ đến thế vật; hoặc do nhớ được những gì đã nhận được về trước, đã qua, đã diệt, đã biến hoại. Loại hỷ như vậy được gọi là hỷ liên hệ đến tại gia. Sáu hỷ này liên hệ đến tại gia.
Này Tu-bồ-đề! Như Lai nói lời chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời chẳng khác. Này Tu-bồ-đề! Như Lai được pháp, pháp này không thật, không hư. Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát tâm trụ nơi pháp mà làm việc bố thí thì như người vào trong tối ắt không thể thấy. Nếu Bồ-tát tâm không trụ pháp mà hành bố thí thì như người có mắt lại thêm ánh sáng mặt trời chiếu soi, thấy các thứ hình sắc. Này Tu-bồ-đề! Ở đời sau nếu có người thiện nam, thiện nữ hay ở trong kinh này thọ trì đọc tụng ắt là Như Lai dùng trí tuệ Phật ắt biết người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành tựu vô lượng vô biêncông đức. 
Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì? Phật cáo Tu-bồ-đề: Thị kinh danh vi Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật, dĩ thị danh tự nhữ đương phụng trì. Sở dĩ giả hà? Tu-bồ-đề! Phật thuyết Bát-nhã ba-la-mật tức phi Bát-nhã ba-la-mật, thị danh Bát-nhã ba-la-mật. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Như Lai hữu sở thuyết pháp phủ? Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết. - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Tam thiên đại thiên thế giới, sở hữuvi trần, thị vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! - Tu-bồ-đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần thị danh vitrần. Như Lai thuyết thế giới phi thế giới thị danh thế giới. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ? - Phất dã Thế Tôn! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng. - Tu-bồ-đề, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩHằng hà sa đẳng thân mạng bố thí, nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thậm đa.
Phật đã nói, Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho mình khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.
Các pháp nhân duyên trên đều sanh diệt như đã thấy, là vô ngã. Con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến cho rằng pháp này là của tôi, pháp này là tôi, pháp này là tự ngã của tôi là sai lầm. Sau đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Muốn đoạn diệt thân kiến cần phải quán pháp này không phải là của tôi, pháp này không phải là tôi, quán pháp này không phải là tự ngã của tôi, quán thọ không phải là của tôi, quán thọ không phải là tôi, quán thọ không phải là tự ngã của tôi.
Tự ngã thì thường hằng, không sanh không diệt hay không thay đổi. Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, YÙ có sanh diệt dã được thấy. Lục căn không phải là tự ngã. Cho nên lục căn vô ngã. Lục Trần cũng sanh diệt, nên lục trần vô ngã. Lục thức cũng sanh diệt, nên lục thức vô ngã. Nói khác đi nhân không có thực thể, duyên cũng vậy, không có thực thể, do đó quả cũng không có thực thể. Lục căn, lục trần, lục thức đã thấy, không có thực thể, tức là chúng vô ngã. Từ đó, có thể nói, do sự gặp gở của ba pháp căn trần thức là xúc; duyên xúc là thọ; duyên thọ là ái. Vậy các pháp đều không có tự ngã. Chủ thể là mắt là vô ngã, sắc là khách thể cũng vô ngã, thì nhãn thức hay tâm thức làm sao có được tự ngã. Nói chung, chủ thể tức lục căn là nhân duyên với lục trần là duyên hay môi trường tiếp xúc mới khởi sanh lục thức hay tâm thức. Vì lục căn, lục trần, lục thức, xúc, thọ, và ái đều có sanh diệt như đã thấy, nên chúng hay thay đổi, sai lầm và không có thật thể hay là không có tự ngã. Vậy các pháp đều vô ngã.
Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly mũi, yếm ly các hương; yếm ly lưỡi, yếm ly các vị; yếm ly thân, yếm ly các xúc; yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm lyý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. 
Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổbất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miênđối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.
Tham dục ý buông lung/ Sai quấy ngày càng tăng/ Không thấy cũng chẳng nghe/ Thọ mạng là vô thường. Chẳng con chẳng cha anh/ Có thể cậy nương nhờ/ Bị chết làm khổ bức/ Không ai có thể hộ.
Lúc già nhan sắc tàn/ Bệnh tật hủy hoại ta/ Thân thể thối rữa nát/ Cái chết là lẽ thường. Thân này để làm gì? Nơi luôn tiết đồ dơ/ Bệnh hoạn làm khốn khổ/ Già suy rồi phải chết.
"Tất cả hành vô thường/ Đều là pháp hưng suy/ Có sanh ắt phải tử/ Tịch diệt an vui nhất. Ví như người thợ gốm/ Trộn đất nắn làm đồ/ Chúng thảy rồi vỡ nát/ Mạng sống cũng như vậy".
Này các Tỷ-kheo do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra. 
Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.
Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sựxuất ly khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho mình khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.
“Nếu người làm điều thiện, Nên tiếp tục làm thêm. Hãy ước muốn điều thiện, Chứa thiện, được an lạc.”
“Nếu người làm điều ác, Chớ tiếp tục làm thêm. Chớ ước muốn điều ác, Chứa ác, tất chịu khổ.”
“Hãy gấp làm điều lành, Ngăn tâm làm điều ác. Ai chậm làm việc lành, Ý ưa thích việc ác.”
Phục thứ Tu-bồ-đề! Tùy thuyết thị kinh nãi chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế gian thiên nhân A-tu-la giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu, hà huống hữu nhân tận năng thọ trì, độc tụng. Tu-bồ-đề! Đương tri thị nhân thành tựu tối thượng đệ nhất hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử.
Nhưng này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Ai quán mắt: ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi". Ai quán sắc... Ai quán nhãn thức... Ai quán nhãn xúc... Ai quán thọ... Ai quán ái... Ai quán tai... Ai quán mũi... Ai quán lưỡi... Ai quán thân... Ai quán ý... Ai quán các pháp... Ai quán ý thức... Ai quán ý xúc... Ai quán thọ... Ai quán ái: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Đời sống tự tại nghe thì dễ mà làm thì khó.  Đạo Phật là từ bi, trí tuệ cho nên bất cứ người nào làm được thì sống một đời sống tự tại. Tu là để giải thoát chứ không bị ràng buộc.  Có nghĩa là thân tâm mình không bám víu vào người khác và người khác không bám víu vào mình; cả đôi bên đều được tự tại.Tự tại đây không phải là muốn làm gì thì làm mà là thân, tâm, ý không dính mắc, không chấp trước làm cho mình và người đều khổ đau.  Tự tại là khi dùng những khổ đau của cuộc đời để rèn luyện con người mình cho thành toàn thiện và khi hiểu được cuộc sống, ta ứng dụng và hóa giải nó.
Tu-bồ-đề, như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà? Thị chư Hằng hà sa, ninh vi đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa. - Tu-bồ-đề, ngã kim thật ngôn cáo nhữ, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ thất bảo mãn nhĩ sở Hằng hà sa sốtam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng bố thí, đắc phước đa phủ? Tu-bồ-đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn! Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử kinh trung, nãi chíthọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, nhi thử phước đứcthắng tiền phước đức.
Này các Tỷ-kheo, nhưng đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến. Ai quán mắt là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi". Ai quán các sắc... Ai quán nhãn thức... Ai quán nhãn xúc... Ai quán thọ... Ai quán ái... Ai quán tai... Ai quán mũi... Ai quán lưỡi... Ai quán thân... Ai quán ý... Ai quán các pháp... Ai quán ý thức... Ai quán ý xúc... Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi".
Việc học Phật và tu Phật mấu chốt ở nội tâm nhằm giải quyết những trói buộc của phiền não gây khổ đau, chứ chẳng dính mắc gì đến kiến giải suông mà các vị Tổ sư thường gọi đó là "nhai cặn bã của người xưa". Xác định được đâu mới là tu, đâu thiếu tu là ở đời sống thường ngày, chính điều này Ðức Thế Tôn đã cảnh báo khi Ngài còn tại thế: "Dầu đọc tụng nhiều kinh, tâm buông lung cẩu thả, như kẻ chăn bò thuê, khó hưởng Sa môn quả.  Dầu đọc tụng ít kinh nhưng hành trì giáo pháp, như thật tâm giải thoát, từ bỏ tham sân si, hai đời không chấp trì, thọ hưởng Sa môn quả ".
Thế nên Tu-bồ-đề, các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tu-bồ-đề, ví như có người thân to như núi Chúa Tu-di (Sumeru), ý ông nghĩ sao? Thân ấy là lớn chăng? Tu-bồ-đề thưa: Rất lớn, bạch Thế Tôn! Vì cớ sao? Phật nói chẳng phải thân, ấy gọi là thân lớn.
Nếu có ai nói rằng: "Ái là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu có ai nói rằng: "Ái là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.
Nếu có ai nói: "Thọ là tự ngã", như vậy không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của thọ đã dược thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng: "Thọ là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã. 
Nếu có nói rằng: "Ý xúc là tự ngã ", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý xúc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng: "Ý xúc là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã. 
Nếu có ai nói rằng: "Các pháp là tự ngã", như vậy, là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của các pháp đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Các pháp là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã. Nếu có ai nói rằng: "Ý thức là tự ngã", như vậy, là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý thức đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Ý thức là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã. 
Nếu có ai nói rằng: "Tai là tự ngã"; nếu có ai nói rằng: ""Mũi là tự ngã"; nếu có ai nói rằng: "Lưỡi là tự ngã"; nếu có ai nói rằng: "Thân là tự ngã"; nếu có ai nói rằng: "Ý là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ý đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng: "Ý là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy ý là vô ngã. 
Nếu có ai nói rằng: "Ái là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng: "Ái là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thứclà vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã. 
Nếu có ai nói rằng: "Thọ là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Thọ là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã. 
Nếu có ai nói rằng: "Nhãn xúc là tự ngã, như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của nhãn xúc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Nhãn xúc là tự ngã", như vậy, là không hợp lý. Như vậy con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã. 
Nếu ai nói rằng: "Nhãn thức là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Nhãn thức là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã. 
Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? A-la-hán hay khởi nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán chăng? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, không vậy! Vì cớ sao? Thật không có pháp tên là A-la-hán. Bạch Thế Tônnếu A-la-hán khởi nghĩ thế này: Ta được đạo A-la-hán tức là còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Bạch Thế Tôn! Phật nói con được Vô tránh tam-muội là bậc đệ nhất trong số người đó, là A-la-hán ly dục đệ nhất. Bạch Thế Tôn! Con không khởi nghĩ con là ly dục A-la-hán. Bạch Thế Tôn! Nếu con khởi nghĩ: Con được đạo A-la-hán, Thế Tôn ắt chẳng nói Tu-bồ-đề là người ưa hạnh A-lan-na. Do Tu-bồ-đề thật không có sở hành nên gọi là Tu-bồ-đề ưa hạnh A-lan-na.
Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Nếu có người dùng bảy báuđầy cả tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, người ấy được phước đức thật nhiều chăng?  Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn rất nhiều! Vì cớ sao? Vì phước đức ấy tức chẳng phải là tánh phước đức, thế nên Như Lainói phước đức nhiều. - Nếu lại có người ở trong kinh này, thọ trì cho đến bốn câu kệ v.v. vì người khác giảng nói thì phước đức này còn hơn phước đức của người kia. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tất cả chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ nơi kinh này ra. Này Tu-bồ-đề, nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp.
Nếu ai nói rằng: "Các sắc là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Các sắc là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã. 
Khó nắm giữ, khinh động, Theo các dục quay cuồng. Lành thay, điều phục tâm; Tâm điều, an lạc đến.
Nếu ai nói rằng: "Mắt là tự ngã", như vậy là không hợp lý. Sự sanh và sự diệt của mắt đã được thấy. Vì rằng sự sanh và sự diệt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng: "Mắt là tự ngã", như vậy không hợp lý. Như vậy, con mắt là vô ngã. 
Như cá quăng lên bờ, Vất ra ngoài thủy giới; Tâm này vùng vẫy mạnh, Hãy đoạn thế lực Ma.
Khi được nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái. Khi được nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ sáu.
Tâm hoảng hốt giao động, Khó hộ trì, khó nhiếp, Người trí làm tâm thẳng, Như thợ tên, làm tên.
Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có nói pháp chăng? Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói. Vì cớ sao? Vì pháp Như Lai nói đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì cớ sao? Vì tất cả bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.
Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ năm.
Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên ý và do duyên các pháp khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ tư.
Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lênnhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ ba.
Trên đường đời, con sẽ gặp những người đối xử tệ với mình. Không ai có bổn phận phải đối xử tốt với con, trừ bố mẹ. Đối với những người đối xử tử tế với con, hãy trân trọng và biết ơn, nhưng cũng hãy đề phòng họ. Họ có thể đối tốt với con vì mục đích nào đó. Hãy tìm hiểu động cơ thực sự. Đừng vội kết luận một người là tốt chỉ đơn giản vì họ ưu ái con.
Rất nhiều người mua vé số suốt nhiều năm nhưng cuối cùng họ vẫn trắng tay, nghèo đói. Để thành công hay giàu có, con đều phải nỗ lực hết mình. Có một điều đơn giản cần nhớ là: Trên thế giới này không có gì miễn phí.
Cuộc đời rất ngắn ngủi. Đừng phí thời gian và năng lượng vào những người, việc, thứ không cần thiết. Nếu con làm vậy, sau này con sẽ nhận ra rằng con đã lãng phí tất cả những ngày tháng qua.
Giữ gìn giới luật/ Không dính nghiệp trần/ Nghiêm cẩn oai nghi/ Không hại sinh vật/ Không gặp tám nạn/ Không thiếu bốn duyên/ Trí tuệ bát nhã hiện tiền/ Tâm bồ đề không thối chuyển/ Tu học Chánh pháp/ Tỏ ngộ Đại thừa.
Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh được nghe những lời nói và chương cú như thế, sanh lòng tin chân thật chăng? Phật bảo Tu-bồ-đề: Chớ nói như thế. Sau khi Như Lai diệt độ, sau khoảng năm trăm năm, có người giữ giới, tu phước, đối với những chương cú này hay sanh lòng tin cho đây là thật, nên biết người ấy không phải ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật gieo trồng căn lành mà đã ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức Phật gieo trồng căn lành. Người nghe chương cú này cho đến một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này Tu-bồ-đề, Như Lai ắt biết, ắt thấy các chúng sanh ấy được vô lượngphước đức như thế. Vì cớ sao? Vì các chúng sanh ấy không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũngkhông tướng phi pháp. Vì cớ sao? Vì nếu các chúng sanh ấy, tâm còn chấp tướng là còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanhthọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng phi pháp tức còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Bởi do nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.
Thấy được chữ Không của Bát Nhã rồi thì chúng ta dễ tu. Bởi vì chúng ta đang mắc bệnh chấp không. Nói tất cả pháp không có chủ thể liền chấp không ngơ. Nếu ai chấp không ngơ là lầm, bởi sự vật đang có giả tướng hiện tiền làm sao nói không được. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ, Không là không chủ thể, không cố định, chớ lầm là không ngơ. Hiểu như vậy chúng ta sẽ không còn chấp nữa.
Chữ Không trong kinh Bát Nhã tức là tánh không của các pháp. Từ con người cho tới muôn vật đều giả có, không có thực thể. Đã là giả có mà chúng ta thấy thật thì đó là mê lầm, giả có mà nói không thì trái với lẽ thật. Vì vậy không thể khẳng định là không. Phải biết muôn sự muôn vật trước mắt chúng ta là tướng duyên hợp giả có.
Chúng ta thấy rõ ý nghĩa của chữ Không rồi thì đối với sự vật hiện tiền mắt thấy, tay sờ mó được là thật có hay thật không? Nói thật có hay thật không đều sai cả vì nó tạm bợ, chỉ có giả tướng hiện tiền. Như vậy phải nói sao ? Nói các pháp không thật có, do duyên sinh, chỉ tạm có nên nhà Phật gọi như huyễn, như hóa. 
Trong kinh A Hàm đức Phật có dạy, người nào thấy được lý nhân duyên thì người đó thấy được pháp. Thấy được pháp tức là thấy đạo hay thấy Phật. Qua đó chúng ta thấy tầm quan trọng của lý nhân duyênnhư thế nào rồi. Cũng như vậy, con người do nhân duyên sinh nên không chủ thể, không cố định. Muôn vật trên thế gian này do nhân duyên sinh cũng không chủ thể, không cố định. Tuy không cố định, không chủ thể nhưng đồng hồ vẫn có, đủ duyên thì nó hiện tiền. Hiểu lý này rồi chúng ta mới bước qua bước thứ hai là chữ Không trong kinh Bát Nhã.
Muốn biết chữ Không trong kinh Bát Nhã hay cả hệ thống Bát Nhã, trước hết chúng ta phải nắm thật vững giáo lý nhân duyên. Người không nắm vững giáo lý nhân duyên thì không bao giờ hiểu được chữ Không trong kinh Bát Nhã. Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyên là chân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
Khi được nói đến: "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi được nói đến: "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ hai.
Khi được nói đến: "Sáu nội xứ cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Khi được nói đến: "Sáu nội xứ cần phải được biết ", chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ nhất.
Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do thân tướng mà thấy Như Lai chăng? - Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Không thể do thân tướng thấy được Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai đã nói thân tướng tức không phải thân tướng. Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.
Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao? Nếu Bồ-tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường. - Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Hư không ở phương Đông có thể nghĩ lường được chăng? - Bạch Thế Tôn, không vậy. - Này Tu-bồ-đề, hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phía trên dưới có thể nghĩ lường được chăng? - Bạch Thế Tôn, không vậy. - Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí, phước đức cũng lại như thế, không thể nghĩ lường. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát chỉ nên như lời dạy mà trụ.
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: "Ta đã được giải thoát". Và vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Khi được nói đến: "Sáu xúc thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Khi được nói đến: "Sáu xúc thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ tư.
Khi được nói đến: "Sáu thức thân cần phải được biết", do duyên gì được nói đến như vậy? Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Khi được nói đến: "Sáu thức thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Ðây là sáu sáu thứ ba.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Đức Phật, chúng ta đều dùng thân khẩu ý, tam nghiệp thanh tịnh, thường tu hạnh lễ kính chư Phật. Nghĩa là chúng ta thường xuyên một lòng thành tâm kính lễ chư Phật mười phương, điều này là lẽ đương nhiên đối với những người Phật Tử. Điều quan trọng cần lưu ý là chúng ta không những kính lễ mười phương chư Phật quá khứ, tức là chư Phật đã thành, mà chúng ta luôn luôn kính lễ chư Phật trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
Đức Phật ra đời, mang một thông điệp của sự giải thoát và an lạc trong cuộc sống đã xuất hiện, những lời dạy của Ngài phải chăng là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời nhằm thực hiện ước mơ của mình, tạo dựng một thế giới an bình cho nội tâm và ngoại cảnh.
Tam Pháp Ấn là ba đặc điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật , ba khuôn dấu của chánh pháp , là ba bản chất của thế giới hiện tượng : VÔ THƯỜNG – KHỔ và VÔ NGà. Ba đặc điểm này xác định tính đích thực của giáo lý Phật Đà, nhằm đảm bảo mọi sự suy tư, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người đệ tử Phật không vượt ra ngoài mục đích giải thoát mà Như Lai đã giảng dạy.
Quán bất tịnh là một đề mục thiền rất quan trọng. Bất cứ ai tu học theo giáo pháp Thế Tôn, muốn vượt quachướng ngại tự thân và tiến bộ tâm linh đều phải thực hành pháp thiền này. Bất tịnh có nghĩa là nhơ nhớp, không sạch, không bền chắc. Đây là một sự thật của thân này. Chỉ cần lưu tâm, xem xét ngay nơi chính bản thân mình cũng giúp nhận ra sự bất tịnh, nhơ bẩn, kể cả lúc mình được xem là sạch sẽ nhất.
Thắp sáng hiện hữu? Vâng, đây là điểm khởi hành cần thiết. Nếu tôi sống mà không biết là tôi sống thì điều đó không khác gì tôi chết. Hoặc có thể nói như Albert Camus trong cuốn L'Étranger: sống như một người chết (Vivre comme un mort). Hoặc như người đời xưa nói "sống say chết ngủ" (túy sinh mộng tử). Biết bao nhiêu kẻ đang sống như người chết chung quanh ta. 
Cạnh những con thuyền, dưới ánh nắng ven sông, trong bóng cây cổ thụ và trong khu rừng vàng nhạt, Tất Đạt, người con trai Bà La Môn đĩnh ngộ ấy đang lớn lên cùng bạn chàng là Thiện Hữu. Nắng nhuộm màu “bồ quân” đôi vai thon đẹp khi chàng tắm lễ “thánh tẩy”. Mắt chàng thoáng những nét trầm tư mỗi lúc chàng dạo chơi trong khu rừng xoài, khi nghe mẹ hát, trong những buổi học với cha, hay khi chuyện trò cùng những người thức giả. Tất Đạt từ lâu đã sớm dự phần trong các cuộc đàm luận của những bậc tri thức, thường tranh biện với Thiện Hữu và cùng bạn thực tập suy tư quán tưởng. Chàng có thể đọc tiếng “Om”* trong im lặng – nói tiếng ấy trong tâm khi thở vào và thở ra, với tất cả tâm hồn, vầng trán chàng chói ngời tia sáng trí tuệ.
Cúi xin lạy đấng Đại Hùng, Đức Ngài giải thoát khỏi vòng trần duyên! Từ bi vô lượng vô biên, Cứu con thoát chốn oan khiên đọa đày. Cúi xin đảnh lễ Đức Ngài.
Trên đường tu, không phải làm cái gì mầu nhiệm, linh thiên mới gọi là tu. Chúng ta sửa duyên xấu thành tốt. Thí dụ mình bị nhiều người ghét thì biết đời trước thiếu gieo duyên lành. Bây giờ ráng tạo duyên lành, để sau này ai cũng thương mến, chớ không giận không trách ai. Tự trách mình, tự sửa mình là người có thể chinh phục được tất cả. Tu như vậy dễ hay khó, thực tế hay tưởng tượng? Nên tu Phật rất thực tế, không phải tưởng tượng viễn vông, cũng không phải quá khó, chỉ tại chúng ta không hiểu nên thành khó, thành sai lầm.
Đời người gẫm khác chi vầng trăng tỏ/ Lại ví như hoa nở toả hương lan/ Nhưng trải qua thời gian chưa mấy độ/ Rồi phôi pha trăng lặng đoá hoa tàn
Hòa thượng ôn và đúc kết lại những vấn đề căn bản và thiết yếu giúp Phật tử dễ nhớ và tu tập. Theo Ngài giải quy y Tam bảo: chánh niệm là Phật, hơi thở là pháp, “sắc thọ tưởng hành thức” bảo vệ và gìn giữ ngũ uẩn là Tăng. Bài giảng cuối, Hòa thượng giảng về chuyển pháp luân với 2 yếu tố chính là Tứ diệu đế và con đường Trung đạo.   
Pháp thoại: Kinh Sáu Sáu, do Hòa thượng Giác Khang thuyết giảng tại Tịnh xá Ngọc Trường vào ngày 07/05/2011.
Phật bảo Tu-bồ-đề : Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biênchúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.
THIỆN HIỆN THƯA HỎI. Khi ấy trưởng lão Tu-bồ-đề (Subhuti) ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên mặt, gối mặt quì xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Rất ít có, đức Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Người thiện nam, người thiện nữphát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ, làm sao hàng phục tâm kia?" Đức Phật bảo: "Lành thay, lành thay! Này Tu-bồ-đề, như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát, nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói. Người thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giácnên như thế mà trụ, nhưthế mà hàng phục tâm kia". - "Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con nguyện thích được nghe".
Pháp thoại "Ý nghĩa Vu lan Báo hiếu" do Hòa thượng thuyết giảng tại đạo tràng Tịnh xá Ngọc Minh (Q.Thủ Đức) vào ngày 10/08/2018 (nhằm 29/06/Mậu Tuất).
Sự luân hồi xoay đi lộn lại, nào biết ai là lớn nhỏ, ai là trước sau, cứ mãi bám níu lấy nhau, lăn tròn chóng mặt. VÔ MINH không biết lại là trụ cốt. HÀNH ác tức cây căm xe chỉ xuống THỨC, thức mới tiến lên DANH SẮC, LỤC NHẬP, XÚC, THỌ và ÁI, ái là trên cao. Ái chúng sanh bình đẳng chơn chánh thì lên đến trí huệ, vào ở chơn như làm Phật, bay bổng khỏi bánh xe khổ là luân hồi. Còn trái lại, nếu ái dục tình thì ích kỷ độc ác, nặng nề dính chặt, phải rớt lộn trở xuống THỦ, HỮU, SANH, TỬ. Tử rồi còn thức nhập thai sanh danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái trở lại.
HT. Minh Hiếu giảng tại TVMQ Perth ngày 24-12-2016
HT. Minh Hiếu giảng tại Thiền viện Chân Không, Hawaii ngày 29-07-2017
HT. Minh Hiếu giảng tại Thiền viện Minh Quang, Perth - Úc, ngày 23-12-2016. Hòa thượng chia sẻ và giải đáp một số vấn đề, tạm gọi là chìa khóa, cho hàng tại gia trên bước đường tu học giáo pháp của đức Phật.
Lời bài nhạc : The Insight that Brings Us to the Other Shore Avalokiteshvara while practicing deeply with the Insight that Brings Us to the Other Shore, suddenly discovered that all of the five Skandhas are equally empty, and with this realisation he overcame all Ill-being. “Listen Sariputra, this Body itself is Emptiness and Emptiness itself is this Body. This Body is not other than Emptiness and Emptiness is not other than this Body. The same is true of Feelings, Perceptions, Mental Formations, and Consciousness. “Listen Sariputra, all phenomena bear the mark of Emptiness; their true nature is the nature of no Birth no Death, no Being no Non-being, no Defilement no Purity, no Increasing no Decreasing. “That is why in Emptiness, Body, Feelings, Perceptions, Mental Formations and Consciousness are not separate self entities. The Eighteen Realms of Phenomena which are the six Sense Organs, the six Sense Objects, and the six Consciousnesses are also not separate self entities. The Twelve Links of Interdependent Arising and their Extinction are also not separate self entities. Ill-being, the Causes of Ill-being, the End of Ill-being, the Path, insight and attainment, are also not separate self entities. Whoever can see this no longer needs anything to attain. Bodhisattvas who practice the Insight that Brings Us to the Other Shore see no more obstacles in their mind, and because there are no more obstacles in their mind, they can overcome all fear, destroy all wrong perceptions and realize Perfect Nirvana. “All Buddhas in the past, present and future by practicing the Insight that Brings Us to the Other Shore are all capable of attaining Authentic and Perfect Enlightenment. “Therefore Sariputra, it should be known that the Insight that Brings Us to the Other Shore is a Great Mantra, the most illuminating mantra, the highest mantra, a mantra beyond compare, the True Wisdom that has the power to put an end to all kinds of suffering. Therefore let us proclaim a mantra to praise the Insight that Brings Us to the Other Shore. Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha! Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha! Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha!”
Khóa tu Truyền thống Khất sĩ do Giáo đoàn III đăng cai tổ chức đã khai mạc hồi sáng qua, 4-10, tại thiền đường tịnh xá Ngọc Yên (phường Yên Thế, TP.Pleiku, tỉnh Gia Lai). Lễ khai mạc đặt dưới sự chứng minh của HT.Giác Giới, HT.Giác Cầu, HT.Giác  Thanh, HT.Giác Hùng cùng chư tôn giáo phẩm Hệ phái, giáo phẩm 6 Giáo đoàn, gần 200 hành giả và đông đảo bà con Phật tử về tham dự. Tại buổi khai mạc, HT.Giác Giới đã có lời khai thị đến toàn thể hành giả khóa tu và nhắc lại lời dạy của Tổ sư Minh Đăng Quang: “Nên tập sống chung tu học, phép tăng chẳng lìa đoàn”. Theo Hòa thượng, con đường tu tập của người khất sĩ là lấy Giới-Định-Tuệ làm pháp môn tu học tiến đến giác ngộ - giải thoát. Vì thế, thế hệ kế thừa cần phải ngồi lại bên nhau tu học cả pháp học lẫn pháp hành nhằm làm cho chánh pháp luôn lưu truyền thế gian, HT.Giác Giới nhắn nhủ. Được biết, 19 khóa tu qua được luân phiên theo từng giáo đoàn đăng cai tổ chức từ vùng cao nguyên đến sông nước Cửu Long. Khóa tu lần thứ 20 này có gần 200 hành giả từ mọi miền đất nước cùng quay về khép mình nghiêm mật tu học 7 ngày (từ 4 đến 11-10).  Buổi lễ khép lại với lời đạo từ của HT.Giác Cầu, giáo phẩm chứng minh Hệ phái, Hòa thượng đã sách tấn hành giả tinh tấn tu hành và chứng minh công đức cho quý Phật tử phát tâm cúng dường hộ trì cho chư tôn đức hành giả khóa tu. Trước đó, gần 200 vị hành giả trong màu huỳnh y giải thoát đã thực hiện hạnh trì bình khất thực giữa phố núi sương mù, bá tánh Phật tử đã bày tỏ lòng kính ngưỡng, quỳ gối đảnh lễ, cung kính cúng dường.  
Hòa thượng giảng giải vấn đề giữ Giới trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Tôi nghe như vầy: Một hôm đức Phật ở nước Xá-vệ (Sràvasti) tại rừng Kỳ-đà (Jeta) trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Khi ấy gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại thành Xá-vệ khất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, trở vềnơi chúngở. Thọ trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi.
Hòa thượng ôn và giảng tiếp về thiền Tứ niệm xứ cùng đại chúng. Hòa thượng giảng nhân mùa An cư kiết hạ tại Tịnh xá Ngọc Viên 2009
Nhân duyên sở sanh pháp / Ngã thuyết tức thị không / Diệc danh vi giả danh / Diệc danh trung đạo nghĩa. (Nhân duyên sanh các pháp / Ta nói tức là không / Cũng gọi là giả danh / Cũng gọi nghĩa Trung đạo).
Hòa thượng giảng về Giới. Theo Hòa thượng, giới thì dễ giữ nhưng hạnh thì khó giữ. Hạnh là điều kiện để đắc quả A-la-hán.
Kinh Bát đại nhân giác của Đại sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau Công nguyên) soạn dịch. Bài Kinh tuy rất ngắn mà bao hàm những điểm chính thuộc cả hai tư tưởng Nhị thừa và Đại thừa mà đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng dạy trong suốt 49 năm.
Vi Phật đệ tử, / Thường ư trú dạ, / Chí tâm tụng niệm, / Bát Đại Nhân Giác.
Đệ nhất giác ngộ: / Thế gian vô thường, / Quốc độ nguy thúy. / Tứ đại khổ không, / Ngũ ấm vô ngã. / Sanh diệt biến dị, / Hư ngụy vô chủ. / Tâm thị ác nguyên, / Hình vi tội tẩu. / Như thị quán sát, / Tiệm ly sanh tử.
Đệ nhất giác ngộ: / Thế gian vô thường, / Quốc độ nguy thúy. / Tứ đại khổ không, / Ngũ ấm vô ngã. / Sanh diệt biến dị, / Hư ngụy vô chủ. / Tâm thị ác nguyên, / Hình vi tội tẩu. / Như thị quán sát, / Tiệm ly sanh tử.
Đệ nhị giác tri: / Đa dục vi khổ, / Sanh tử bì lao, / Tùng tham dục khởi, / Thiểu dục vô vi, / Thân tâm tự tại.
Đệ nhị giác tri: Đa dục vi khổ, / Sanh tử bì lao, / Tùng tham dục khởi, / Thiểu dục vô vi, / Thân tâm tự tại.
Đệ tam giác tri: Tâm vô yểm túc, / Duy đắc đa cầu, / Tăng trưởng tội ác. / Bồ-tát bất nhĩ, / Thường niệm tri túc, / An bần thủ đạo, / Duy tuệ thị nghiệp.
Đệ tứ giác tri: Giải đãi trụy lạc, / Thường hành tinh tấn, / Phá phiền não ác, / Tồi phục tứ ma, / Xuất ấm giới ngục.
Hòa thượng giảng tiếp về bản đồ 10 pháp giới, trong đó có 15 hạng chúng sanh (4 đường ác, 4 đường thiện, 4 bậc tiểu thánh và 3 bậc tam tôn).
Tứ thiền: Một lần nữa, Hòa thượng khẳng định việc hành Tứ thiền là làm sáng rõ Định và phát triển Tuệ, từ đó tâm an lạc, an trú, nhất tâm, định tĩnh diệt trừ vô minh cùng với các lậu hoặc. Việc thuần hóa tâm là một tiến trình quán liên tục đạt đến sự định tâm để dần loại trừ kiết sử và tùy miên. Hòa thượng tiếp tục nhắc nhở chúng ta quán Vô thường - Khổ - Vô ngã để loại bỏ uế nhiễm của ý tưởng tham dục, sân hận và tác hại.
Khói hương xông thấu mấy tầng xanh / Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành / Trên khói hương này xin Phật ngự / Chứng minh đệ tử tấc lòng thành.  
Chúng ta cũng nên hãy biết dùng phép thờ phượng tạm, làm phương pháp cứu thế độ đời, chánh lý trong sạch trong lúc khổ nguy; đó là một sự thích hợp với thời cơ, dùng tạm hữu vi để bước tới vô vi, chân thật, yên vui vĩnh viễn. Vì vô vi là đúng lý quí báu hơn hết.
Pháp chánh giác có ra là do tứ diệu đế. Pháp là chánh giác, là pháp của trong tứ diệu đế, do tứ diệu đế sanh ra. Chánh giác là Pháp là tiếng trống, tứ diệu đế là dùi trống, mặt đất cõi đời là mặt trống. Bởi có mặt trống, Phật mới chỉ ra dùi trống, dùi chạm mặt mới sanh tiếng trống. Tiếng ấy là pháp chánh giác, còn chúng sanh là người nghe.
Số tức quan tức là quán xét hơi thở mà đếm số. Đức Phật Thích-ca khi xưa dưới cội bồ-đề, ngồi trên tòa cỏ, xét đếm như vậy. Số tức quan phát ra trong khi gần nhập định, chớ chẳng phải mượn số tức quan làm đề mục niệm, để đặng thiền định. 
Sám là tự hối điều lỗi của mình. Sám hối là biết tội lỗi của mình mà muốn sửa đổi. Hối là răn dạy, là tiếc điều lỗi trước, hối cải, hối hận, hối họa, hối ngộ, hối quá, hối tội, hối tâm. Sám hối cũng nghĩa là ăn năn chừa bỏ. Ăn năn chừa bỏ tức là tắm rửa trong sạch. Không còn xấu đen dơ bẩn và bỏ sự chấp chứa tội lỗi, kêu là xả đọa. Thế nên gọi là sám hối thì được xả đọa.
Người ta cũng gọi võ trụ là chơn như không không im lặng tự nhiên, tự nhiên là Phật, còn không không ấy là trời, cái trời chắc thật, còn vạn vật chúng sanh, các pháp có có, xao động là đất, cái đất thay đổi. Ấy là lý ông Trời, bà Đất của nhơn loại chớ không phải người nào.
Ta là tất cả, tất cả là ta, ta sống cho tất cả, tất cả sống cho ta, tiếng ta đây là tất cả, đó tức là chơn lý võ trụ. Kẻ thật hành đúng chơn lý gọi là Khất sĩ. KHẤT ấy là xin, SĨ đây là học. Xin ấy rồi lại cho, học đây rồi lại dạy. XIN phẩm thực để nuôi thân giả tạm. CHO sự thiện lành phước đức để bảo giữ sự sống dài lâu. HỌC bằng cách lượm lặt phương pháp khắp nơi, rút nhiều kinh nghiệm. DẠY là đem kết quả thật hành đặc điểm, chỉ lại cho người.
Lễ giáo là giáo lý của cách bày tỏ ý cung kính, hay cũng tức là cách bày tỏ ý cung kính, là một phương pháp giáo hóa, một giáo lý tốt đẹp quan trọng của đời sống nhơn loại. Lễ giáo là nền tảng của sự thương yêu, thiện cảm, thân thiện, dung hòa tốt đẹp với nhau, ấy là phép sống đời tốt đẹp nên gọi là lễ phép. Lễ phép là một qui tắc, là phép tắc, là một kỷ luật thiện, mà người có lễ phép, là sẽ được sự vui sướng nhứt trong đời.
Đạo Phật là con đường đi đến quả Phật giác chơn. Con đường ấy là Khất sĩ. Họ của chư Phật ba đời là Khất sĩ. Khất sĩ là lẽ thật của chúng sanh, mục đích của chúng sanh. Khất sĩ là đến với giác chơn, toàn học biết sáng tự nhiên, hết mê lầm vọng động. Khất là xin, sĩ là học. 
Cái khổ vui vốn không chơn lý, nó không có với trung đạo tự nhiên, chính nó là sự thái quá và bất cập, sái với lẽ bình thường, khác nào như người trèo núi ham vui đi quá mau nên phải bị vấp té khổ đau, cái khổ đau là sự ngưng nghỉ, nghỉ khỏe, an dưỡng, để hết mệt đặng mà đi nữa, cái khổ ấy rất hay, rất vui sướng, khi mình biết mình được yên nghỉ.
Ai được khen tức là người hiền ở có đức, thanh tịnh, dè dặt, khiêm tốn và cứ tầm học thêm mãi. Ai được khen tức là người có nghị lực và sốt sắng, nghèo cũng không rúng động, và không đổi tánh, kiên nhẫn và khôn ngoan. Ai được tôn trọng tức là người lành, dễ thương, biết ơn, có nhơn, đứng ra chỉ giáo, dạy dỗ, dắt dẫn người đời. Lòng nhơn, cách khôn khéo, lòng lành bao giờ cũng phải có, và để xử với mọi vật, những cái đó có ở đời cũng như cái cốt ở trong xe. Như kìa bởi các Ngài thiệt hành mà truyền bá đạo đức, nên chư vị Thánh Hiền thật đáng tôn trọng.
Tứ thiền: Hòa thượng diễn giảng tiếp về Tứ thiền, làm sáng tỏ Giới - Định - Tuệ, diệt trừ 5 triền cái, nguyên nhân làm tâm xao động, làm tâm muội lược. Hành Tứ thiền nuôi dưỡng chơn tâm không bị Tham – Sân – Si chi phối, nguyên nhân của đau khổ và ràng buộc. Việc hành Tứ thiền là con đường giải thoát nhiếp phục tâm dứt bỏ Tham – Sân - Si từ nơi sâu thẳm trong tâm thức tìm thấy hạnh phúc, tự do và an lạc.
Tứ thiền: Hòa thượng giảng giải về Tứ thiền, pháp môn hướng dẫn chúng ta an định tâm và vượt qua các chướng ngại trên tiến trình đưa đến trí tuệ. Bên cạnh đó, nhắc nhở chúng ta cần phải tinh tấn chuyên cần gìn giữ giới:5 giới, 8 giới, 10 giới, 250 giới và hành Tứ y pháp để từ đó thanh lọc tâm truyền vào tâm với lòng thanh tịnh của giới đức, tạo ta tâm hỷ lạc và lòng tin tuyệt đối với Pháp.
Hòa thượng đề cập đến đề mục Ái. Ái là tình yêu thương, là sự tham chấp, là các dục lạc của sắc thân và cảm thọ. Hạnh phúc được Hòa thượng đề cập trong bài pháp này chỉ là trạm dừng chân tạm thời cho dù có an lạc nhưng cũng chỉ là phù du, không chắc chắn và bị trói buộc bởi đau khổ. Cuối cùng, Hòa thượng sách tấn chúng ta thực hành giáo pháp hành Thiền để vượt ra khỏi “Tam giới” của dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Ngài chỉ ra rằng các cảm thọ về hỷ lạc và an bình rồi cũng vô thường và có thể thay đổi.  
PHÓNG SỰ - THEO DẤU CHÂN PHẬT Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006  
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006
Cố vấn chỉ đạo: NS.TN. Khiết Minh Quay phim: SC. Liên Hòa, cô Đạo Trí Viết lời bình: ĐĐ. Giác Hoàng Chuyển ngữ tiếng Anh: SC. Liên Hòa Chuyển ngữ tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Việt: SC. Liên Hòa Thuyết minh tiếng Hoa: SC. Tâm Hiếu Thuyết minh tiếng Anh: Cô Đạo Trí Biên tập: Cô Đạo Trí, Phật tử Bùi Quốc Cường Cùng sự cộng tác của chư Ni chùa Kim Liên (TP.HCM) và chùa Kiều Đàm Di Việt Nam tại Ấn Độ. Thực hiện: 06/2006
Hòa thượng phân định cho chúng ta biết Niết bàn là lẽ thật, là chân lý ngay trong cuộc sống này, hiểu biết rõ thiện ác, có chánh tri kiến Như Lai với niềm tin vững chắc không đắn đo suy tính. Đạo Phật là đạo giữ thân, khẩu, ý thanh tịnh thấu hiểu nguyên nhân của khổ đau là Tập đế, do thói quen thường hằng, huân tập, cho cái tôi là vũ trụ làm tư tưởng nhớ nghĩ, ham thích chiếm giữ mà sanh ra phiền não. Hòa thượng diễn giảng sâu vào thiền định có quán, có chỉ để không dính mắc vào sắc thân và cảm tình dọn bỏ tư tưởng tạp niệm dẫn tiến đến nhất niệm cuối cùng đạt đến vô niệm vượt lên trên sự thô tế, vi diệu, viên dung mà không bị bám víu.
18. Nay sướng, đời sau sướng / Làm phước, hai đời sướng / Nó sướng: ‘Ta làm thiện’ / Sanh cõi lành, sướng hơn. 19. Nếu người nói nhiều kinh / Không hành trì, phóng dật / Như kẻ chăn bò người / Không phần Sa môn hạnh. 20. Dầu nói ít kinh điển / Nhưng hành pháp, tùy pháp / Từ bỏ tham, sân, si / Tĩnh giác, tâm giải thoát / Không chấp thủ hai đời / Dự phần Sa môn hạnh.  
Trí tuệ là căn bản để chuyển hóa vô minh: Ngu si là gốc khổ luân hồi // Bồ-tát thường nhớ không ngơi // Nghe nhiều học rộng chẳng lơi chút nào // Vun bồi trí tuệ càng cao // Biện tài đầy đủ công lao chóng thành // Đặng đem giáo hóa chúng sanh // Niết-bàn an lạc còn lành nào hơn.
Người khổ nghèo lắm kết oán hờn // Không duyên tạo ác đâu sờn // Bồ-tát bố thí, ai hơn kẻ này // Lòng không còn thấy kia đây // Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào // Dù người làm ác biết bao // Một lòng thương xót, khổ đau cứu giùm.
Hòa thượng chia sẻ về những nguyên nhân, hậu quả và cách điều chế "dục", hướng đến đời sống thanh cao của bậc giác ngộ: Năm dục gây lầm lỗi ngất trời // Tuy người thế tục ngoài đời // Mà lòng không nhiễm vui chơi thế tình // Ba y thường nhớ của mình // Ngày nào sẽ được ôm bình ngao du // Chí mong lìa tục đi tu // Đạo gìn trong sạch chẳng lu không mờ // Hạnh lành cao vút kính thờ // Thương yêu tất cả không bờ bến đâu.
Tử sanh hoài đau khổ vô cùng // Phát tâm dõng mãnh đại hùng // Quyết lòng độ hết đồng chung Niết-bàn // Thà mình chịu khổ muôn vàn // Thay cho tất cả an nhàn thảnh thơi // Mọi người đều được vui tươi // Đến bờ giác ngộ rạng ngời hào quang.
Hòa thượng nhắc nhở chúng ta thân tâm thường tịnh an lạc. Do sự tiếp xúc giữa căn và trần làm cho tâm khởi lên những suy tưởng và cảm thọ khoái lạc, một khi tham ái khởi lên trong tâm không thể tránh những hành động theo sau càng nghiêm trọng hơn hệ lụy sau đó là nỗi khổ niềm đau mà ta phải gánh chịu xuyên suốt trong hành trình sanh tử luân hồi. Bên cạnh đó, Thượng tọa tiếp tục dẫn dắt chúng ta chuyên tâm tu tập thiền định xác định thế giới vọng tưởng trong từng sát na, loại bỏ 5 triền cái hôn trầm, hoài nghi, sân hận, trạo cử và tham dục.
Qua 15 hạng chúng sanh, 4 đường ác, 4 đường thiện, 4 tiểu thánh, 3 bậc tam tôn. Sau khi nhìn thấy chân lý của pháp, Hòa thượng khuyên chúng ta cần phải chuyên tâm đối mặt với thử thách, nuôi dưỡng minh kiến để diệt trừ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái, sân hận, vô sắc ái, mạn, trạo cử và vô minh. Hòa thượng giảng rõ về sắc thân, nghiệp, tứ thiền, từ đó đưa đến sự cảm thọ không chế ngự được liên tục bị thúc đẩy, đối kháng, trói buộc, rồi bị đưa đẩy bởi vô minh và ái dục làm cho phiền não, lang thang đến vô cực.
Vũ trụ quan theo cái nhìn của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Hòa thượng chia sẻ khái niệm về Báo thân hay còn gọi là định, là tuệ, là Niết bàn tịch tịnh trong Thủ Lăng Nghiêm. Báo thân có pháp thân, báu thân và ứng hoá thân do căn bản vô minh làm cho định, tuệ này bị lu mờ, chuyển biến chậm lại, có chơn, có vọng, không gian, thời gian nhận lại nhưng không giữ lại cái gì, biết tất cả nhưng không dính mắc vào cái gì hết. Thực chứng các pháp là vô tướng chỉ là năng lực, là thức biến theo trình độ nhận thức mà đối cảnh. Tiếp theo, Hòa thượng truyền tải thêm trong bài pháp thoại này về sắc uẩn là sắc và không, thọ uẩn là súc và ly, tưởng uẩn là nhớ và quên đến cuối cùng hành uẩn là sanh và diệt. Song song đó, Hòa thượng phân biệt cho chúng ta biết thêm về sự khác nhau của 10 kiết sử trong Tiểu thừa và Đại thừa.
Hòa thượng nhấn mạnh chuyên sâu hơn về người thấu hiểu đạo Phật là tự độ, từ bi và trí tuệ, không chạy trốn cuộc đời, đi trong cuộc đời, lặng lẽ nhìn cái diễn biến của sắc trần, sắc pháp, sắc uẩn để thấy rõ mà không dính mắc và tiếp tục giảng chi tiết hơn về tiến trình ngũ uẩn do dính mắc vào sắc thân, tâm và hoàn cảnh mà tạo ra nhiều đau khổ. Bên cạnh đó, Hòa thượng sách tấn tu sĩ hành “Tứ y pháp”, giữ gìn giới luật, đó là bức tường rào không để cho vọng tâm phóng túng, quyết tâm chuyên cần tu tập,quan trọng là thiền định. Thiền định giúp ta phát triển trí tuệ, nhìn rõ chơn tâm một cách sâu sắc.
Hòa thượng giảng giải về bốn đường ác địa ngục là si mê, ngạ quỷ là tham lam, súc sanh là sân hận và a-tu-la, là hơn thua, đố kỵ.Do đó, người tu phải nâng cao tầm nhận thức, quán chiếu, thấy cái tật xấu, cái hiểm ác của ngũ uẩn. Nhận diện đường đi thấy như thật, tuệ tri chơn tâm một cách rõ ràng, nhìn thấy cái lặng lẽ, cái thiền định bên trong của mình thật sâu sắc. Hòa thượng nhấn mạnh tu tập là đoạn tâm, nếu áp dụng sai phương pháp ắt bị điên đảo. Bên cạnh đó, ngừơi tu cần nhận định rõ hơn về căn, trần, thức do duyên kết hợp làm tâm vướng mắc, ý chí bị chướng ngại trên con đường giải thoát. Do sự vô minh sanh phiền não, chi bằng ta phải đối trị nó bằng phương pháp tu sửa, tinh tấn vượt qua các trở ngại đi đến tịch tịnh giải thoát.
Văn - Tư - Tu là mục đích của người Phật tử khi đến chùa.
Nhân ngày vía đức Quan Thế Âm Bồ-tát, Hòa thượng chia sẻ cùng đạo tràng, tu tập theo hạnh "lắng nghe" của Ngài. "Lắng nghe để hiểu / Nhìn kỹ để thương".
Sanh già bệnh chết là quy luật tất yếu của đời người. Kiếp sống con người thật là mong manh, và vô thường. Dòng chảy sinh diệt của cuộc đời sẽ cuốn trôi kiếp sống con người vào con đường luân hồi không lối thoát. Người hành giả học Phật cần có tầm nhìn trí tuệ đối với sinh tử sự đại và hiện thực cuộc đời. Đức Phật khuyên mỗi người không nên thả trôi cuộc đời mình vào những ham muốn của thế gian, không nên sống đắm chìm truy tầm về quá khứ và cũng không nên mơ mộng về tương lai. Sự thật cần thiết ngay hôm nay là phải thấy được pháp tu tập thù thắng trong hiện tại. Người trí là người biết xây dựng đời sống hiền thiện tỉnh thức, sống với chánh niệm tỉnh giác, làm chủ vận mệnh của đời mình.
Pháp chánh giác có hai chơn là pháp học và pháp hành. Còn hành thì còn đạo, hết hành thì hết đạo. Cho nên đời nay, người ta gọi đời mạt pháp là bởi có học chớ không có hành, nghĩa là người ta không có thật hành đúng theo pháp chánh giác của chư Phật nữa, tức là người ta hành theo tà pháp còn học thì học theo chánh pháp. Tuy nói vậy, chớ người ta cũng không nhận sự học của người ta, theo kinh điển là chánh nữa, vì người ta nói: “Xứ này không có Phật, và thời này là mạt pháp, hết pháp rồi. Kẻ đang tu học bây giờ đây là đạo của riêng mỗi người, chớ không phải đạo Phật nữa”. Người ta nói: “Đời nay kẻ tu đều là tà đạo hết vậy”.
Chánh pháp xuất hiện hôm nay ắt không phải sớm hay muộn, vì đã đến lúc mà chắc hẳn không còn ai khen hay chê, mừng hay giận, thương hay ghét, buồn hay vui, và ai nấy cũng đều đang có tu, muốn tu tất cả. Bài này không phải của nhà sư Đại hay Tiểu thừa, mà là do giới luật của Phật, do các bậc Khất sĩ đã thật hành chín chắn Tứ y pháp, pháp Chánh đẳng Chánh giác, giác ngộ.
Bởi đạo Phật là đạo Khất Sĩ du tăng, con đường của bậc giác ngộ, đi theo con đường ấy là đến với chơn lý của võ trụ, để đạt mục đích niết-bàn, Khất Sĩ y bát là bậc thượng trí, sau sự học của lớp thế gian. Kẻ du học ấy phải đi xin ăn, mặc một bộ áo ba manh, và một cái chén đựng đồ ăn, để nhẹ mình lo tu học, và đi khắp xứ.
Khất Sĩ giống như người chết ông già, hay trẻ nhỏ mới sanh, hoặc như người bịnh, giống kẻ cổ nhân, in như người đi du lịch; nào khác kẻ dạo đồng, tắm biển, hứng mát bờ sông, đi đâu chỉ đem theo một cái chén to bằng đất, để đựng đồ ăn là đủ. Vừa là để tránh sự bối rối thiếu hụt tay không, khi đến bữa, vừa là gọn tiện một cái chén đủ đựng chung ăn trộn, để khi vào bụng rồi, thì nó cũng lộn xộn in nhau. 
Nếu là ta sống có ích lợi cho người, thì người khác họ cũng sẽ sống có ích lợi lại cho ta, y theo lẽ tiến hóa, chẳng bảo cho ai tự lo lấy mình, và không để cho ai có lòng tư kỷ. Mà kẻ nào sái đạo luật, thì phải bị phạt răn khổ sở thất bại đau sầu.
Giáo lý y bát không phải dễ, không phải tự ai muốn bước ra hành là được, nếu kẻ bắt chước, ham vui hoặc không thông chơn lý, chẳng có giới hạnh, không hiểu chánh pháp, chẳng biết cách học tu, không rõ sự quý giá của muôn đời, chẳng nếm được mùi vị của Niết-bàn đạo lý, thì khó mà thật hành, khó mà chắc chắn bền dài, khó mà giữ hạnh đắc đạo, và nhứt là sẽ bị ma vương phá đổ, chư thiên xô đùa, nhơn loài bắt tội, thú dữ hại thân, chớ dễ gì đủ can đảm diệt lòng tự trọng, để đứng ra đi xin ăn, bữa no bữa đói, thấp thỏi ăn mày cho chúng khi ngạo chửi la, làm như kẻ tội nhơn bị sa thải phải mặc áo tù, đầu cạo trọc, xấu hổ hơn kẻ tật nguyền.
Y là Pháp, Bát là Đạo. Tức là đạo pháp đường chơn truyền dạy, có y bát mới có chơn như. Luật pháp cũng như manh áo che tâm, sự đi sưu tầm gom góp kinh luật luận, cũng như lượm từ miếng vải đâu kết lại, cho thành kho tạng. 
Những người tu Phật mà không y bát có hại gì không? - Nếu không có y bát hay là y bát có mà không dùng, thì gọi là bậc trời người đang tập học, nhìn xem Phật, chớ chưa gọi đúng là người đã tu theo như Phật. Vì, định huệ có là do giới, giới là y bát giáo lý Khất Sĩ, nếu không y bát thì đâu có giới, cõi Phật, bằng mà giới của người chế ra vầy khác, thì gọi đó là giới của trời người thôi.
Chơn lý là trường học chung của tất cả, chơn lý không phải là đời hay đạo. Chơn lý không phải là tông giáo hay đảng phái, chủ nghĩa, giáo phái nào? Chơn lý không phải là một vị Phật, một vị Trời nào! Chơn lý không phải là tên chơn lý lẽ thật gì cả; chỉ mượn danh từ tạm gọi để phân biệt, nên kêu là chơn lý thôi! Cũng như tiếng Phật, nghĩa tạm phân biệt là sự giác ngộ vậy. Chơn lý là võ trụ, là đại đồng của chúng sanh tất cả.
Chơn lý không phải nói vắn tắt, là cái lẽ thật yên lặng tự nhiên ấy mà hiểu được. Mà cần phải biết lẽ thật, nguyên nhân nguồn gốc của chúng sanh vạn vật và các pháp, từ trong cái yên lặng tự nhiên sanh có ra bằng cách nào? Cách đi tới ra sao và sẽ đến đâu? Cái yên lặng tự nhiên trước là sao và cái yên lặng tự nhiên sau này là sao? Có hiểu như thế, chúng sanh mới đi trúng đường và đến nơi kết quả được.
Chơn lý không phải nói vắn tắt, là cái lẽ thật yên lặng tự nhiên ấy mà hiểu được. Mà cần phải biết lẽ thật, nguyên nhân nguồn gốc của chúng sanh vạn vật và các pháp, từ trong cái yên lặng tự nhiên sanh có ra bằng cách nào? Cách đi tới ra sao và sẽ đến đâu? Cái yên lặng tự nhiên trước là sao và cái yên lặng tự nhiên sau này là sao? Có hiểu như thế, chúng sanh mới đi trúng đường và đến nơi kết quả được.
Chơn lý là trường học chung của tất cả, chơn lý không phải là đời hay đạo. Chơn lý không phải là tông giáo hay đảng phái, chủ nghĩa, giáo phái nào? Chơn lý không phải là một vị Phật, một vị Trời nào! Chơn lý không phải là tên chơn lý lẽ thật gì cả; chỉ mượn danh từ tạm gọi để phân biệt, nên kêu là chơn lý thôi! Cũng như tiếng Phật, nghĩa tạm phân biệt là sự giác ngộ vậy. Chơn lý là võ trụ, là đại đồng của chúng sanh tất cả.
Trong khoảng thời gian ngắn, Thượng tọa cũng muốn chia sẻ cùng Phật tử một số chi tiết về sự thành đạo của đức Phật. Suốt sáu năm tầm đạo, rồi 49 ngày đêm thiền định dưới cội bồ đề, cuối cùng sa-môn Gotama cũng chứng đạo Chánh đẳng Chánh giác, tìm ra con đường giải thoát rốt ráo cho nhân loại.
Trách nhiệm của người tu sĩ là phải tu tập cho tốt, phát huy khả năng, sự  tiến bộ, tâm hoan hỷ, tha thứ với tình thầy trò, đời sống tu tập gương mẫu, tài chánh phân minh... nương tựa vào ngôi Tam bảo để phục vụ nhân sinh, sống hoà hợp, giúp đỡ, ứng xử chan hòa, học hạnh trụ trì của các bậc Tôn túc, trau dồi tâm đức của bậc tu sĩ.
Pháp thoại: "Chia sẻ kinh nghiệp tu tập" do HT. Giác Phùng (Trụ trì Tổ đình Tịnh xá Ngọc Tòng - Nha Trang) thuyết giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 03/07/2018 (nhằm 20/05/Mậu Tuất)
Hòa thượng đã triển khai phần nào quá trình truyền đạo vào Việt Nam của các nền tảng Nho - Lão và Phật giáo. Qua những tích chuyện về chư Tổ thời xưa, Hòa thượng chia sẻ cùng đại chúng về sự tiếp nối, truyền thừa Phật pháp. Từ đó cho thấy đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã vận dụng những bài học này, kết hợp các truyền thống, đưa ra một con đường mới cho Phật giáo VN thời bấy giờ. Đó là Đạo Phật Khất Sĩ VN - Nối truyền Thích-ca Chánh pháp.
Hòa thượng đã chia sẻ cùng đại chúng: “Một vài kinh nghiệm trong trách vụ trụ trì và chứng minh Đạo Phật Khất Sĩ nối truyền 5 công hạnh của đức Phật”. Hoà thượng đã nhắc các Tăng Ni, đặc biệt đối với những vị tân trụ trì rằng hầu hết chư Tăng Ni đều sẽ đến giai đoạn nhận trọng trách trụ trì, quản lý tự viện, dạy dỗ đệ tử và hoằng pháp độ sinh. Đó là cột mốc trong quá trình tu học và hành đạo, nên mỗi vị tự thân ý thức trách nhiệm trong vị trí này. Một trong những yếu tố quan trọng giúp người trụ trì làm tốt trọng trách đó là thực tập chánh niệm cao độ.
Giá trị thật sự của khổ đau là nền tảng cho người học Phật nhận ra được sự tương quan trong Phật giáo, phiền não tức Bồ đề. “Bến vinh quang chỉ nhận những con thuyền đi trong giông tố”. Những con người thành tựu ở đời đều phải trải qua con đường của sự gian khổ. Không nhận thấy được khổ đau chính là nền tảng của hạnh phúc, không nhận ra được nguyên nhân của khổ đau thì sẽ không bao giờ hiểu được giá trị của hạnh phúc. Khổ đau và hạnh phúc là hai mặt song song của cuộc sống, chỉ khác nhau khi nhận thức của con người khác nhau. Nếu cuộc đời cứ suông sẻ thì ta sẽ không nhận ra được giá trị của cuộc đời. Muốn nhận rõ được điều này đòi hỏi phải có sự định tâm, quán tưởng, chánh niệm tỉnh thức của thiền định. Không thể bứt bỏ khổ đau để có được hạnh phúc mà phải nhận ra hạnh phúc có được là từ khổ đau. Nhờ có khổ đau ta mới có được kinh nghiệm sống và thẩm thấu được bản chất của cuộc sống.  
Giáo lý Vô ngã rất quan trọng thường được nhắc đến trong nhà Phật chính là Vô thường – Khổ - Vô ngã. Đây là giáo lý được thuyết rất sớm trong buổi đầu Đức Phật thành đạo với bài Kinh Vô ngã tướng. Sau khi nghe bài kinh đó, năm anh em Ngài A-nhã Kiều Trần Như đều chứng được đạo quả. Trong Kinh Đức Phật dạy các thầy Tỳ kheo lúc nào cũng phải minh sát, quán tưởng sâu xa về cái mà được gọi là cái ta, cái tôi và tự ngã của ta. Thế giới này không trường tồn, vĩnh cửu, vì thế tất cả những thứ mà ta chấp thủ cho rằng “ cái này là ta, cái này là của ta, cái này là tự ngã của ta”, bản thân nó đều không có tự ngã. Đức Phật khẳng định rằng người nào với tuệ giác, minh sát được “ cái này không phải là ta, cái này không phải là của ta, cái này không phải là tự ngã của ta” thì vị ấy sẽ được giải thoát.  
Tự ngã chính là cái tôi, là bản ngã của mỗi con người, từ cái tôi đó làm cho ta vướng mắc, chấp thủ, nắm giữ những cái mà thuộc về ta, là của ta và cho nó thuộc về tự ngã của ta. Nguyên nhân của những sự đau khổ bất an chính là tự ngã. Ta không chấp nhận và muốn chạy trốn hiện thực nên làm ta khổ. Nhưng hạnh phúc là ngay bây giờ ta cảm thụ được sự bình an và tự tại. Hạnh phúc phụ thuộc vào cách ta nhìn đời và ứng xử trước sự khổ ở đời. Nếu ta học được cách chấp nhận, tập làm chủ dòng cảm xúc thì ta sẽ không cảm thấy đau khổ khi cảm giác hay cảm xúc thay đổi. Đất trời bốn mùa thay đổi, vạn vật vô thường, cuộc đời có khổ đau nhưng không cố định. Người trí phải học cách hóa giải tự ngã bằng con đường duy nhất mà Đức Phật đã dạy bằng cách thực tập chánh niệm tỉnh giác “ Cái này không phải là ta, cái này không phải là của ta, cái này không phải là tự ngã của ta”.  
Bài chia sẻ của Hòa thượng nhân ngày Tưởng niệm Tổ sư Minh Đăng Quang lần thứ 64 tại Pháp viện Minh Đăng Quang, Q.2, TP.HCM.
Vô minh sanh ra hành, Hành sanh ra thức, Thức sanh ra danh sắc, Danh sắc sanh ra lục nhập, Lục nhập sanh ra xúc, Xúc sanh ra thọ, Thọ sanh ra ái, Ái sanh ra thủ, Thủ sanh ra hữu, Hữu sanh ra sanh, Sanh sanh ra tử, Sanh sanh ra tử.
Mười hai nhơn duyên cũng ví như một đám rừng có mười hai cửa, như một bánh xe có mười hai cây căm, động một cây là động tất cả, vào một cửa là vào trọn trong rừng. Trong một nhơn duyên sẵn chứa mười một nhơn duyên khác, dính nhau như dây xích liên hoàn, chúng sanh vừa chạm phải một mắc là đã bị quấn đeo.
Cỏ sanh tình thọ làm cây đực cái. Cây tuy đực cái nhưng chẳng giao dâm. Đến thú tư tưởng mạnh khó dằn mà giao cấu. Chất tinh ba là giống của cây, thú, người sanh bông, trái, hột, trẻ con. Người còn nhục dục theo thú. Trời biết là sái quấy khổ hại nên đã bỏ rồi. Phật là chơn nhơn nên trong sạch không không tự nhiên sau khi giác ngộ. Đã giác ngộ tởn sợ, được kinh nghiệm, đã học rồi, chán nản rồi mau lo tiến hóa, diệt khổ an vui là chót hết.
Trong võ trụ không gian và thời gian chỉ có ba pháp là trần, thức, căn. TRẦN là tứ đại, của cải, các pháp, chất nuôi sống; THỨC là sự sống biết, là chúng sanh; CĂN là thể tướng hình dạng của mỗi chúng sanh. Cho nên nói rằng: Trong võ trụ có một cái cây, trần vật chất là đất nước lửa gió phía dưới, căn là rễ ăn trong trần để nuôi thức, thức là thân cây, tưởng là nhánh cây, pháp là lá cây, trí như hoa, giác như vỏ trái, tánh như hột, chơn lý như thịt cơm. Cây ấy tức là đạo của chúng sanh vậy. Đạo ấy vốn từ nơi trần mà ra, quả ấy là quả giác, kêu là Phật.
Hòa thượng Giác Toàn thuyết giảng Chơn Lý Số 2 "Ngũ uẩn" tại Pháp Viện Minh Đăng Quang - Q 2 vào ngày 08/7/2018 (nhằm ngày 25/5 Mậu Tuất).
Hòa thượng Giác Toàn chia sẻ giáo lý trong Lễ khai giảng lớp Tu học Chơn lý - "Chơn lý Võ trụ quan" tại Pháp Viện Minh Đăng Quang - Q2 , ngày 10/6/2018 (nhằm ngày 27/4 Mậu Tuất)
VÕ TRỤ là cái thể rộng lớn, tối đen, tự nhiên, vắng lặng, đứng vững mãi mãi; tựa như vỏ trái lựu cực to, trong ấy có những quả địa cầu lơ lửng như hột lựu nhỏ. Cái vỏ ấy không ai biết nó là tới đâu vì muôn loại đều ở trong. Kẻ gọi nó là cái không không hay vô minh là vì không thể biết được. 
Ngũ uẩn hay ngũ ấm là năm pháp cái trong võ trụ. Mỗi vật chi trên thế gian này, dầu có hình tướng, dầu không hình tướng đều thuộc về những chi tiết của ngũ uẩn cả. Năm pháp cái ấy là: 1. Sắc uẩn (hình sắc thể chất) 2. Thọ uẩn (thọ cảm ưa chịu) 3. Tưởng uẩn (tư tưởng hay tưởng tượng) 4. Hành uẩn (hành vi tức việc làm) 5. Thức uẩn (thức trí phân biệt).
Lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Quả địa cầu là một làn hơi đặc, nổi tròn, hết nổi đến xẹp. Quả địa cầu là đất, nước, lửa, gió; khi mới nổi không có cỏ, cây, thú, người, Trời, Phật. Trước hết cái ấm của tứ đại sanh ra cỏ, cây, thú. Ấm là sự dung hòa giữa nóng và lạnh. Đất ấm sanh ra nhựa chỉ, mồ hôi, lâu biến thành rễ cây, cỏ, thú. Nước ấm sanh bèo, rong, đặc lền, lâu cũng biến sanh thú, cỏ cây. Đó tức là trần sanh căn vậy. Có căn rồi, căn sanh thân, thân sanh quả, quả sanh nhơn, nhơn gieo trong trần mà sanh căn thân quả khác. Căn là rễ, trần là bụi, quả là trái, nhơn là hột giống (bộ phận của cây).
Chúng sanh bởi từ kiếp trước vô minh, hành ác, gây nhơn nên mới phải nhập thai sanh thức, danh sắc, lục nhập là kết quả hiện tại mới có thân hình. Bởi có thân hình mới có xúc, thọ, ái, thủ, hữu là gây nhơn hiện tại, để chịu sanh tử đời sau là quả vị lai khổ não. Vậy muốn không quả vị lai: sanh, tử, khổ thì đừng có nhơn hiện tại: xúc, thọ, ái, thủ, hữu. Muốn không nhơn hiện tại thì phải không quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập. Muốn không quả hiện tại thì phải dứt trừ nhơn quá khứ: vô minh, hành.
BÁT CHÁNH ĐẠO tức là tám cách hành đạo, theo lẽ chánh của bậc thánh nhân, cũng kêu là bát thánh đạo, là pháp tự độ độ tha, sống chung với tất cả, để cùng đưa nhau lên đến nơi cùng tột là Niết-bàn. Bát chánh đạo cũng gọi là chánh pháp hay trung đạo, gồm cả sự học và hành. Bát chánh đạo là tám cửa, tám đường vui, tám pháp giải thoát, tám tia sáng… là con đường tiến hóa của chúng sanh, tức là chơn lý của võ trụ mà muôn loại đều ở trong.
Các pháp là gồm cả sự làm, lời nói, ý tưởng, tình thọ, trí hóa, các sự thay đổi, cử động, tác dụng, giáo lý, v.v… Vạn vật, chúng sanh và các pháp là cái có ở trong cái không. Vạn vật là xác thân, chúng sanh là sự sống và các pháp là thức cần dùng để nuôi vạn vật và chúng sanh (tức xác thân và sự sống). Pháp có lý có sự, sự để nuôi thân, lý để nuôi trí. Lý có ác có thiện, sự cũng có thiện có ác.
Cái biết linh diệu là nhờ vắng lặng, khi nó đứng ngừng thì cái điển của nó thâu rút được các pháp khắp nơi. Càng yên lặng một chỗ thì càng vung tỏa ra rộng lớn, cũng như ánh sáng ngọn đèn, như lò máy điện. Cái biết mà được thong thả, khỏe khoắn, thanh nhàn, khoái lạc, yên tịnh thì có được đủ sức mạnh thần thông.
Quán xét về sự sanh sống của loài người thì chúng ta nhận thấy rằng: Tiếng nhơn (người) là một danh từ chỉ cho sự hành vi của sắc thân có chứa lòng nhơn ái, nên gọi người là gồm cả thân và tâm. Tâm đây là lấy sự nhơn (lòng nhơn) làm trung tâm điểm; mà lòng nhơn ấy có là tại nơi hành vi, việc làm thiện.
CHÁNH nghĩa là phải. CHƠN nghĩa là thật, không giả dối. ĐẲNG nghĩa là thứ bực, thứ tự, bè phe, bằng nhau. Giác nghĩa là tỉnh, biết, cáo phát ra, ngủ dậy. CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC là bậc thật, phải, công bình, sáng suốt.
Công lý cũng tức là chơn lý, hay lẽ chánh đẳng chánh giác, trung đạo dung hòa của võ trụ. Công lý nghĩa là lẽ không thêm, không bớt, bằng nhau, đạo lý rất công bằng, không chênh lệch thiên tư về mặt nào. Thể của công lý là sự không lượng không biên, không cố chấp, vô cực. Tướng của công lý là hình thể của vạn vật các căn. Dụng của công lý là luật pháp giáo lý tương đối biến hóa. Lýcủa công lý là tự nhiên, vắng lặng, bằng thẳng, mát mẻ.
KHẤT SĨ là học trò khó đi xin ăn để tu học. Khất sĩ là cái sống của chơn lý võ trụ, mà tất cả chúng sanh đều là học trò cả thảy. Bởi chúng sanh là cái biết, từ chưa biết đến đang biết, và cái biết sẽ hoàn toàn ngơi nghỉ. Các sự thấy, nghe, hiểu để đem lại cho cái biết. Biết quý báu hơn không biết, có biết mới hết mê lầm chấp trật, khổ sở nạn tai. Từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trước đến sau, từ chiều đến sáng, mỗi lúc cái biết càng phân biệt, làm việc tích trữ, lớn to và đi tới, làm cho chúng sanh càng ngày càng được thêm sự học hành. 
KHẤT SĨ là học trò khó đi xin ăn để tu học. Khất sĩ là cái sống của chơn lý võ trụ, mà tất cả chúng sanh đều là học trò cả thảy. Bởi chúng sanh là cái biết, từ chưa biết đến đang biết, và cái biết sẽ hoàn toàn ngơi nghỉ. Các sự thấy, nghe, hiểu để đem lại cho cái biết. Biết quý báu hơn không biết, có biết mới hết mê lầm chấp trật, khổ sở nạn tai. Từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trước đến sau, từ chiều đến sáng, mỗi lúc cái biết càng phân biệt, làm việc tích trữ, lớn to và đi tới, làm cho chúng sanh càng ngày càng được thêm sự học hành. 
Ăn chay là trong sạch với miếng ăn, không tham ăn, không vọng ăn, không cố chấp kén chọn miếng ăn, tâm không nhơ bẩn vì miếng ăn, không để miếng ăn bôi trây tâm hồn nhơ bẩn. Cái lưỡi không thích vị ngon gọi là thiệt căn thanh tịnh, không ô nhiễm vị trần. Vị trần miếng ngon làm cho tâm trí bị bó hẹp, dơ dáy, xấu xa, đen tối, trở nên ác tà, cho nên gọi vị ngon là bùn bụi. Mà kẻ nào đã biết mình học tu, muốn tấn hóa và giải thoát phiền não, phải xem món ngon là thường rẻ, hạ nó xuống hai bên và dưới chân của tấm lòng thì mới mong làm nên công nghiệp, hoặc học hành đắc đạo quả được.
Thể của định là võ trụ bao la vô cực, không không vắng lặng và tối đen. Tướng của định là chơn như không vọng động, đứng ngừng, chết nghỉ, trơ sựng. Dụng của định là thay đổi, tiến hóa, an vui, giác ngộ và quả linh thần thông. Lý của định là tự nhiên chơn thật. Thâncủa định là giới. Trí của định là huệ. Tánh của định là chơn. Còn định là tâm của tất cả chúng sanh hay cũng là sự sống, sức mạnh và bao gồm tất cả v.v...
Kính lạy Phật, Pháp, Tăng tam bảo Nhang bông đèn khẩn cáo dâng lên Cúng Phật-đà nhờ lượng bề trên Cầu cho đặng vững bền khoái lạc Nguyện những kẻ cùng con ân tạc Trước cầu xin an lạc mẹ cha Sau chúng sanh chẳng hạn trẻ già Thảy đều đặng thuận hòa khỏe mạnh.
Trường đạo đức võ trụ, chúng sanh là học trò chung, các lớp chung, càng nhiều rộng càng quý ích, để dắt người từ bực, bước lên đến mục đích chung, là sáng suốt hiền lương, và khỏi khổ. Giải thoát từng lớp để tiến đến sự giải thoát hoàn toàn, mà thiết tưởng mỗi người, chắc không ai có ý gì muốn trói buộc, để làm trễ nải cuộc tiến hóa chung. Ấy thế, Khất sĩ là một lớp trong nhiều lớp, không phải hiệp, không phải chia.
Chữ tâm, trên có ba điểm như sao giăng, dưới có cái vòng móc như mặt trăng xế, cũng có nghĩa là ba điểm: tinh, khí, thần, hay giới, định, huệ ở nơi sắc thân này gọi là tâm. Tâm ấy là sự ngăn ác, giữ mình trong sạch, yên lặng và sáng suốt, mới thiệt là trung tâm điểm, cốt yếu của sự sống đời, là ta vậy.
Nước là một chất lỏng chan hòa với tất cả các chất, cũng như sự không xan tham, chan sớt sống chung cùng với cả chúng sanh. Nước bao giờ cũng mát, dầu phải bị cơn đốt nấu đi nữa, thì sau khi đó nó cũng mát trở lại tánh cũ. Cũng như người quân tử không bao giờ sân giận, dầu phải bị ai gây gổ, khêu chọc thì cái nóng ấy cũng chỉ trong giây lát mà thôi. Vì bởi người đã quen tánh mát, tánh mát đã tự nhiên, để tự nhiên là nó mát lấy nó.
Chơn lý như mặt trời, pháp lý như đèn sao, thế sự như hang tối. Vậy nên cái học của chúng ta là học chơn lý, thấu chơn lý mới gọi là bậc thật học.
Lời nói của người tu ví như hoa sen, việc làm của người tu ví như lá sen, ý niệm của người tu ví như gương sen. Cả thảy các pháp đều ở trên cao, không trung, và không còn phải ô nhiễm nước bùn theo thế sự.
Pháp chánh giác có hai chơn là pháp học và pháp hành. Còn hành thì còn đạo, hết hành thì hết đạo. Cho nên đời nay, người ta gọi đời mạt pháp là bởi có học chớ không có hành, nghĩa là người ta không có thật hành đúng theo pháp chánh giác của chư Phật nữa, tức là người ta hành theo tà pháp còn học thì học theo chánh pháp. Tuy nói vậy, chớ người ta cũng không nhận sự học của người ta, theo kinh điển là chánh nữa, vì người ta nói: “Xứ này không có Phật, và thời này là mạt pháp, hết pháp rồi. Kẻ đang tu học bây giờ đây là đạo của riêng mỗi người, chớ không phải đạo Phật nữa”. Người ta nói: “Đời nay kẻ tu đều là tà đạo hết vậy”.
Chánh kiến là sự thấy rõ lẽ chánh để thật hành theo, khỏi phải mê tín. Vì mê tín là một việc xấu xa bị người chê ngạo cho những cái việc làm xu hướng, mà không hiểu nghĩa lý của việc ấy, khác thể như người đau mắt chẳng thấy đường, lần mò đi đêm vậy.
Có nhu đạo mới thành nhân đạo, và nhu đạo là sẽ thắng tất cả mọi thứ chiến tranh mạnh cứng, là phép sống đời trong những cảnh loạn ly. Nho đạo cũng là sợi dây cột chùm tất cả cây cao để tránh nạn bão to gió lớn, cùng là sự xô xát đập đùa lẫn nhau.
Giới luật của Tăng là bức tường hàng rào, đón ngăn giữa sự xuất gia và tại gia, không cho chung lộn. Người tại gia như còn ở ngoài hàng rào, chỉ có kẻ xuất gia nhập đạo mới là được ở trong hàng rào, trong đạo, theo hầu bên Phật. Khi xưa mặc dầu là Phật dạy Tăng, coi sóc cho Tăng, Tăng đi khít bên Phật, thế mà Phật cũng không nhận một ai là đệ tử của Ngài, vì đối với cái đạo của chư Phật, Ngài là người thay thế dạy bảo dùm thôi. Ngài không xưng thầy, Ngài không gọi học trò, Ngài dứt bỏ cái ta và của ta trói buộc. Ngài cũng chưa chắc tin một người đệ tử nào là sẽ theo đúng y như Ngài, và Tăng chúng cũng không ai dám xưng gọi thầy tôi, tôi là đệ tử Phật, vì sợ mình không giữ nổi đạo hạnh y như Phật, là hư tiếng Phật.
Thân khẩu ý ẩn mật kín đáo, cũng như cái hột còn tốt nguyên vẹn chẳng hư hao. Một cái hột kín đáo, tròn trịa, không nứt bể, ruột chẳng hở lòi, ngòi mộng không sứt gãy, thì chắc chắn sẽ sanh cây, vỏ ruột ấy chắc chắn sẽ nuôi được ngòi mộng, và hương vị thật hoàn toàn, tánh chất nguyên vẹn.
Phật là người giác ngộ, Chúng ta sớm nên giác ngộ. Vì sự giác ngộ tâm chơn, quý báu hơn cái thiện lành thức trí, và cái thiện lành thức trí cần ích hơn là sắc thân vật chất, ác quấy, tội lỗi, danh lợi, vui chơi, cái có nơi ngoài tứ đại.
Vật chất là ác, giáo lý của cái có là ác, tứ đại vạn sự là ác, thân trẻ nhỏ là ác. Vậy chúng ta muốn sống an vui, thì phải bỏ xuống cái ác mới được.
Đi tu đúng chơn lý, chánh lý hơn hết. Đi tu là con đường giác ngộ quý báu lắm. Đi tu là để giải thoát trần khổ, để làm người giác ngộ, và dắt dẫn chúng sanh. Đi tu để lập đời tốt đẹp, cải sửa phong tục, khai đường mở lối cho thiên hạ. Người tu sẽ được đứng yên trên mặt đất, cõi đời chỉ dung chứa người tu. Người tu là được sống ở đời tốt đẹp.
Trong đời ai cũng phải ăn đặng sống. Nhưng bởi có cái sống trước, mới có sự ăn sau, Vậy thì muốn sống là chớ sát sanh, muốn ăn thì không nên trộm cắp.
Chính tôi đây mới là người làm ruộng, mới thật là kẻ biết yêu quý giữ nghề làm ruộng. Trần thế là miếng ruộng to, mỗi xác thân người là một cục đất nhỏ, các pháp lành của tôi ban rải ra và ghim sâu trong đất ấy là hột giống. Kết quả của tôi là Niết-bàn hạnh phúc vĩnh viễn, nghề làm ruộng của tôi như thế, ấy là nghề chơn thật của tôi, và không khi nào tôi dời đổi bởi tôi yêu quý nó, vì nó là nghề tốt đẹp.
Trần thế tứ đại (đất, nước, lửa, gió) cũng như một thân hình cây, cỏ cây như nhánh lá, thú ví bông hoa, người là vỏ trái, Trời là ruột trái (hay thịt cơm, mùi vị), Phật là hột giống để đời mãi mãi.
Vậy thì công lý là không có đàn áp ai hết, và bởi không có đàn áp ai hết nên mới gọi là công lý. Đã là công lý thì đâu có chúa tể, chúa tể chỉ có tạm cho trẻ nhỏ, người lớn lớp dưới số riêng, chớ đâu có dùng chung cho tất cả hay như những ông già đặng. Vì trên cái già là kế chết, chớ đâu có cái lớp quá hơn già. Ví như ta kêu người bằng con, thì há lại chẳng có kẻ khác kêu ta bằng con lại hay sao?
Học đạo lý tức là học cái lẽ sống, con đàng bước lên, mà đối với cổ nhân xưa, hồi thú mới tiến hóa ra là chưa có được. Vì vậy nên gọi tam giáo là ba nấc thang thiện, trên súc sanh trong ngày hôm nay. Có tam giáo mới có tạo ra trẻ nhỏ, người lớn, ông già; ba hạng phân biệt là từ ác đến thiện, đến tu và thành đạo. Như thế nghĩa là đối với chúng sanh nhiều kiếp ác mới tới thiện, nhiều kiếp thiện mới tới tu, và nhiều kiếp tu mới thành đạo. 
Người học đạo tức là vẹt đất nhảy lên, phá địa ngục mà ra, xé càn khôn mà đến, đạp sanh tử mà đi, làm chủ lấy mình, cao ráo sạch trên, không ai bì kịp. Cho đến ông cha thời gian cũng không nhốt ngăn đặng. Như vậy mới phải là người hoàn toàn giải thoát, giải thoát cái đời phát sanh nguồn đạo.
Triết lý của bài này là chỉ rõ rằng cái tâm của ta là chúa tể như sư tử, vì nhơn loại có là do từ trong cái ác mà tiến lần ra. Cái khổ cái chết sẽ làm cho tâm ta lần lần trở nên giác ngộ. Còn quan quân tướng tá là các cái ý thức, tình dục, thọ, tư, trí, tưởng, chí, sắc, hành, khẩu, thân… các pháp của trong tâm ta vậy. Khi tâm mê thì các pháp đều mê, cũng như chúa ác thì bầy tôi thảy ác. Khi tâm giác thì các pháp đều giác, cũng như chúa thiện thì bầy tôi thảy thiện. Cho nên gọi mình làm chủ, dạy chúng sanh của mình là y như thế.
Muốn học thì phải để tâm yên lặng, trống không; có tâm không mới nhớ chứa ra hết thảy sự học; có tâm không mới tầm tõi quán xét, tham cứu sưu tìm được; có tâm không mới tỉnh táo sáng láng, học cho mình, dạy cho người, lâu ngày kết quả; nhờ tâm không, tịnh định, có nghỉ yên mỗi lúc, mới giữ được mực trung, do đó sẽ được đến nơi đến chốn, nghỉ ngơi sau khi toàn học.
Đạo là thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai mãi mãi. Đức là không gian hóa sanh bao chứa vạn vật muôn loài. Gồm cả đạo đức, không gian thời gian gọi là võ trụ. Võ trụ là chơn lý lẽ thật! Võ là không gian, trụ là thời gian. Võ trụ là đạo đức.
Giáo lý Đại thừa tuy là ở tại xứ Tàu, nhưng trước hết có ra là do Đại đức Ca-diếp, đệ tử lớn của Phật, được Phật trao truyền y bát, thay Phật làm Tổ, nắm giữ Tăng đoàn. Đại đức Ca-diếp trước kia là người cầm đầu của một giáo phái ngoại đạo. Ngài là bậc đại trí huệ và từ bi đức hạnh. Ngài giỏi về môn luận, sáng suốt cao siêu, thượng trí. Cho nên trong hàng đệ tử đức Phật, Ngài giỏi nhứt về bên học, chuyên tu về định huệ, thuyết pháp hoằng dương chánh giáo nhiều hơn là sự câu chấp giới luật, vì đối với bậc đã đắc tứ quả là qua khỏi giới luật rồi vậy.
Cõi thiên đường ngày hôm nay mà có cho người ta kêu gọi, là bởi xưa kia có một xứ nọ, loài người không còn tham muốn nữa. Cả thảy từ nhơn loại tiến đến Niết-bàn, trong lúc đang đi tới, nơi khoảng giữa ấy tức là thiên đạo. Thiên đạo là khoảng đường giữa của người và Phật. Mà mục đích của chúng sanh là tiến đến Phật. Thế nên thiên đường là nấc thang tạm của nhơn loại để bước lên tới Phật, cũng như người lớn là bước chưn của trẻ nhỏ tiến lên ông già. Ông già là Phật, người lớn là Trời, trẻ nhỏ là người. Phật, Niết-bàn là chỗ đến của tất cả.
Đối với tất cả, chúng ta nên phải lấy đạo đức làm gốc, giữ đạo đức làm đường. Bằng chưa được như thế, chúng ta đang ở nơi ngành ngọn nào, môn nghệ lề lối nào, xa gần chi, cũng cần nên phải nhớ giữ gốc chân đạo đức, tập lần bước tới, chớ khá nên tự phụ, chớ mê sa đắm đuối thì nạn khổ chết mới mong đặng dứt tuyệt trừ tiêu.
Tánh là nguyên lý sanh ra chúng sanh, vạn vật các pháp. Tánh tức là võ trụ không gian trơ lặng. Tánh là bản nguyên của tất cả. Tánh là gốc nguồn của muôn loại. Tánh cũng là bản chất đầu tiên của võ trụ. Tánh là họ, vốn, chơn thật của cả thảy, cũng là căn bản của hết thảy.
Những ai muốn bỏ phàm làm Thánh, trau đạo bỏ đời, thì phải nên cần “học để tu”. Khi tu là phải xem mình như dốt nát, lơ lơ dường ám độn, đối với ai cũng phải nên chịu sự sút kém nhẫn nhường. Có như thế mới đặng chưởng trau đức hạnh, mà không nên so bì sự khôn lanh quỷ quyệt, xảo trá hơn người, thì tội lỗi bẩn nhơ khổ nạn mới được diệt tiêu trừ sạch. 
Quyển đạo Phật này có ra với tánh cách siêu nhiên, không cần dư luận, không thiên tư, không chỉ trích, mà là chơn lý, công lý, chỉnh đốn, chấn hưng, giác ngộ, khuyến khích, theo ý muốn của khắp người người. Ấy cũng bởi đạo Phật suy đồi đã lâu nên lắm kẻ cũng dùng danh từ Phật mà bày ra đủ cách ngụy tạo vô lý, khiến cho nên kẻ thật muốn tu không còn ai biết phải sao là đạo Phật. Bởi cớ ấy, nhơn duyên hoàn cảnh ép buộc là phải viết ra, chớ không thể nói riêng tư với ai.
Đành rằng người tu là phải dứt trừ tam nghiệp của thân khẩu ý, không nên tích trữ nó nữa; nhưng đó là dứt nghiệp hiện tại và không sanh nghiệp vị lai, chớ những nghiệp quá khứ đã gieo tạo rồi, thì cũng không sao tránh được sự kết quả của thiện ác khổ vui xảy đến.
Vô Lượng Cam Lộ nghĩa là Pháp bảo vô lượng tiếp dẫn chúng sanh. Ai ai cũng thật hành theo được, và cũng đắc được Pháp bảo ấy hết! Có hành đạo Bồ-tát mới đắc quả Như Lai vậy. Pháp bảo có ra là do chư Phật quá khứ. Pháp bảo là thầy của chư Phật hiện tại và vị lai, thay thế cho chư Phật quá khứ.
Vô Lượng Cam Lộ Vương Như Lai tức là A-di-đà Phật. Đức Phật A-di-đà có ba tên: Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật và Cam Lộ Vương Như Lai. A-di-đà, tiếng Phạn là Amita, nghĩa Vô Lượng Cam Lộ. Vô Lượng Cam Lộ là Pháp bảo không lường. Pháp bảo là nước mưa cam lộ. Pháp bảo là không lường sáng suốt. Pháp bảo là không lường bền dài. Bởi cớ ấy nên gọi Phật A-di-đà có ba tên, hay như ba vị Phật là nghĩa như vậy.
Quan Thế Âm nghĩa là quán xét sự thế tiếng khổ tối tăm, tức là tấm lòng từ bi trí huệ của chư Bồ-tát giáo hóa. Vậy nên gọi từ bi trí huệ là Quan Thế Âm. Quan Thế Âm là Bồ-tát, Bồ-tát là từ bi trí huệ. Hay cũng gọi là có Quan Thế Âm mới từ bi trí huệ, có từ bi trí huệ mới Quan Thế Âm, Bồ-tát là phải như thế, như thế mới là Bồ-tát. Đó là pháp lý vậy.
Ông Mục-kiền-liên Tàu dịch là Đại Thái Thức, nghĩa là bậc thức trí rộng lớn. Ông Mục-kiền-liên Đại Thái Thức là vị đệ tử lớn của Phật, đắc nhiều phép thần thông bậc nhất. Khi ông vừa mới đắc được sáu phép thần thông là tâm thanh tịnh, nên mắt thấy xa, tai nghe xa, hiểu biết ý trong tâm người, xét suy được mạng số, chơn thần bay cao, ý đã an hòa diệt vọng. Ông dùng đạo nhãn xem khắp cả thế gian, tức là suy gẫm nơi pháp lý mà nhận rõ việc đời.
Địa nghĩa là cứng, dày, đựng chứa, rộng khắp. Địa là nền tảng của tư cách con người. Địa là nội bộ bản tâm của mình. Nơi đây Địa là đại nguyện lực tế độ chúng sanh. Tạng là Pháp bảo Tam tạng, kinh luật luận gồm khắp. Vương là tâm vua chủ tể. Vậy thì Địa Tạng Vương tức là tâm nguyện của pháp, ai ai giác ngộ ra cũng thảy đều có cả. 
Trong Diệu Pháp Liên Hoa kinh, phẩm Tựa đầu, có nói như vầy: Lúc ấy Phật Thích-ca nói kinh Vô Lượng Nghĩa cho thính chúng nghe. Sau đó Ngài nhập định, hào quang nơi khoảng giữa hai chơn mày phóng ra soi về hướng Đông, làm cho tất cả chúng hội đều xem thấy rõ các thế giới vạn vật và chúng sanh nơi phương ấy, từ cõi địa ngục cho đến thiên đường, cùng đến các chư Phật Thánh ở Niết-bàn, từ thấp tới cao, từ nhỏ tới lớn, đều hiện ra đủ cả trước mắt; làm cho ai nấy đều sửng sốt ngạc nhiên về phép lạ. Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc Từ Thị mới hỏi Bồ-tát Văn-thù, vì cớ chi Phật biến hiện như vậy. Ngài Văn-thù đáp: Ấy là Phật sắp nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà chư Phật xưa đã từng nói, và cũng có hiện ra điềm như thế.
Hòa thượng trao đổi 10 đề mục pháp giới của đạo Phật theo 2 bài Trung bộ kinh số 1 “Pháp môn căn bản”, số 152 “Căn bản tu tập”. Đạo Phật lấy Giới - Định - Tuệ làm căn bản không phải tin hay không tin mà đến để thấy. Để giữ cho thân mình là đề mục để quán chiếu, phân tích, tìm hiểu từ đó có những sáng tạo mới làm phương tiện dẫn dắt cho mọi chúng sanh. Đạo Phật là sự thấy rõ không vướng mắc,giữa mê và ngộ, là tu tập nhận thức, là tri kiến cứu cánh, phải tự mình nghiền ngẫm, tự sám hối, tự thấy biết không chấp trước. Giới -Định -Tuệ là nền tảng trao dồi, tu tập, là chánh nghiệp, chánh mạng của người tu nói chung và người khất sĩ nói riêng, là trú dạ lục thời, là hành tứ y pháp theo chơn lý “Nối truyền Thích Ca chánh pháp” của Tổ sư Minh Đăng Quang.
Nhân dịp pháp thoại đầu xuân năm Đinh Dậu, HT. Minh Hiếu khuyến tấn hàng Phật tử nên nương theo sự giáo hóa của chư Tôn đức, thực hành theo lời Phật dạy. Mỗi người hãy tự thắp lên cho mình ngọn đèn chân lý của Chánh pháp, không nên cúng bái, cầu xin. Trong cuộc sống thường nhật của mỗi chúng ta, luôn có nhiều biến cố thăng trầm, thử thách. Mỗi một thử thách đến với bản thân ta là đều có nguyên nhân của nó. Và mỗi một biến cố đi qua sẽ để lại nhiều bài học kinh nghiệm trên bước đường đời. Người Phật tử phải hiểu rõ và tin sâu vào nhân quả. Khi đã hiểu và thâm tín nhân quả thì ta có thể bình thản đón nhận tất cả những thứ đến và đi trong cuộc đời này. Ta sẽ được bình an và hạnh phúc, không còn cảm thấy đau khổ, sợ hãi, bất an. Nếu ta muốn cho mình được bình an thì đừng làm người khác đau khổ. Xin hãy lắng lòng nghe, lắng lòng nghe và suy ngẫm.
" Đương lúc thanh xuân, thân ta tráng cường. Đến lúc về chiều má tóp lưng còng. Như con cò già héo hắt bên sông. Người không tu đạo, thuyền không bến về." Giá trị đời người không phụ thuộc vào địa vị, danh lợi, bạc tiền, giàu sang, sắc đẹp. Mà giá trị của con người dựa vào đức hạnh và công phu tu tập. Người sống với hạnh của bậc Thánh chính là người sống chánh trực, hiền thiện, biết khiêm cung, biết sợ tội lỗi và phải đoạn trừ nghi hoặc, diệt trừ được bản ngã. Đó chính là cách sống của người trí. Phần thứ hai của Phẩm Già trong Kinh Pháp Cú, HT. Minh Hiếu đã chỉ rõ sự khác biệt giữa người ngu và kẻ trí, giữa vô văn phàm phu và bậc Thánh. Và qua đó Hòa thượng cũng đề cập đến sự sai biệt của phước báu, của sự nắm giữ và từ bỏ, giữa người có tu và người không tu. Phải tự mình nổ lực tu tập để chuyển hóa nghiệp lực vì khổ đau hay hạnh phúc đều do ta mà ra. (Liên Ngọc tóm tắt)
Giá trị đời người không phụ thuộc vào tuổi thọ ngắn dài, con người có mặt bao nhiêu năm trên cõi thế gian này. Mà phụ thuộc vào cách sống và sự cống hiến làm đẹp cho đời. Thời gian sẽ đi qua rất nhanh cho kiếp sống của một con người. Phải biết trân quý từng phút từng giây, phải sống cho thật ý nghĩa, đừng để lãng phí tháng năm tuổi trẻ. Nhằm để người học Phật nhận ra được giá trị nhân sinh quan của cuộc đời và quan điểm của Đức Phật về vấn đề "Già - Trẻ". HT. Minh Hiếu đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn qua bài giảng Phẩm Già trong Kinh Pháp Cú." Làm sao vui được đời là bể khổ. Ai có hay chăng sao mãi reo cười. Tấm thân tật bệnh tưởng đâu còn mãi. Một mai hư nát, uổng một kiếp người." (Liên Ngọc tóm tắt)
Hòa thượng chỉ rõ: người học Phật, muốn vào nhà Như Lai, thì phải mở tâm từ bi. Bởi lẽ, tâm từ bi như biển cả, rộng lớn, bao la, có thể dung chứa tất cả. Ngược lại, tâm tham sân si, đố kỵ ... sẽ làm lu mờ ngọn đèn tâm đăng, gây trở ngại trên đường vào nhà Như Lai. Hòa thượng đã dẫn chứng một số ví dụ cụ thể trong cuộc sống, trong sự tu tập của Phật tử để minh họa cho các ý Pháp trên.  
Con người ai cũng sợ khổ đau và đều mưu cầu bình an, hạnh phúc. Hạnh phúc hay khổ đau đều do ta quyết định, mỗi người phải chịu trách nhiệm cho hành động của mình và phải nhận lấy hậu quả do chính hành động đó đem lại. Và khi tâm trí bị dục vọng ham muốn chế ngự thì ta mất đi sự kiểm soát mà tạo thành ác nghiệp. “Quả kia vì bởi có nhân, nếu nhân không có quả sanh bao giờ”. Sanh, già, bệnh, chết là con đường tất yếu mà mỗi người đều phải trải qua. Tất cả những khổ đau, oan trái trong đời đều là do ta đã gieo nhân bất thiện. Đó là những bài học làm người vô cùng quý báu và lời cảnh tỉnh để chúng ta phải biết tu tập chuyển hóa, hoàn thiện nhân cách của bản thân, có đời sống thiện lành với tâm yêu thương rộng mở để vượt thoát ra khỏi vòng oan oan tương báo của sinh tử luân hồi. Đức Phật dạy “ Với gậy người chăn bò, lùa bò ra bãi cỏ. Cũng vậy, già và chết, lùa người đến mạng chung”.
"Mọi người sợ hình phạt, mọi người sợ tử vong. Lấy mình làm ví dụ, không giết không bảo giết”. Sống ở trên đời này, ai cũng sợ khổ đau và đều tầm cầu hạnh phúc. Nhưng tất cả sự buồn vui, khổ đau, hạnh phúc đến với ta không phải tự ngẫu nhiên mà đều có những nguyên nhân sâu xa mà ta không nhìn thấy được. Những nguyên nhân đó chính là quy luật nhân quả chi phối khắp trùm pháp giới này. Vì vậy phẩm “Hình phạt” trong Kinh Pháp cú, Đức Phật khuyên mọi người, điều gì mình không muốn thì đừng làm với kẻ khác, đừng gieo đau khổ cho người khác trong khi ta lại muốn được bình an. Tất cả những hành động làm tổn hại, đau đớn về mặt thể xác và những ý nghĩ, lời nói thiếu sự kiểm soát, thiếu sự từ ái cũng giống như một nhát dao gây tổn thương về mặt tinh thần đều là nguyên nhân gây khổ cho mình và cho người.
Con người sống ở đời, muốn thành công phải dựa vào ý chí và nổ lực của bản thân. Người tu học Phật muốn được an lạc, hạnh phúc cũng phải nổ lực tinh tấn hành trì theo lời Phật dạy. Tinh tấn đối trị sự buông lung, giải đãi và chính nhờ có tinh tấn tu tập thiền định nên tâm luôn được tỉnh thức, trí tuệ phát sanh. Mạng sống con người chỉ dựa vào hơi thở, hơi thở thật là mong manh và cuộc đời thì rất đỗi vô thường. Nhờ vậy mà ta nhận ra được giá trị chân lý qua lời Phật dạy, để từ đó tinh tấn tu sửa thân tâm, tự thấy được chính mình và tự điều chỉnh hành vi cho đúng với chánh pháp. Đó chính là nếp sống của bậc trí. “ Nổ lực giữ chánh niệm. Tịnh hạnh, hành thận trọng. Tự điều, sống theo pháp. Ai sống không phóng dật. Tiếng lành ngày tăng trưởng”.
Con người sống trên đời nếu nội tâm không có sự khắc chế, không có sự tu tập sẽ thả trôi tâm ý theo vòng xoáy của dục vọng, của sự ham muốn hưởng thụ. Trên thế gian này , điều đáng sợ và nguy hiểm nhất chính là dục vọng. Dục vọng chế ngự làm ta mất sự kiểm soát, mất nhân cách, mất tuệ giác và nhiều thứ quý giá về mặt tinh thần. Đức Phật gọi đó là người sống buông thả, giải đãi, buông lung, sống mà như chết. Người sống không buông lung, là người có đời sống hiền thiện tỉnh giác, biết điều tiết ham muốn, thúc liễm thân tâm, điềm đạm và tinh tấn tu tập để sống cho đáng được gọi là sống và để thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.“ Không phóng giật, đường sống, phóng giật là đường chết. Không phóng giật, không chết, phóng giật như chết rồi”.
Ai sống một trăm năm, Không thấy pháp tối thượng, Tốt hơn sống một ngày, Thấy được pháp tối thượng.
Ai sống một trăm năm, Lười nhác không tinh tấn, Tốt hơn sống một ngày Tinh tấn tận sức mình.
Tháng tháng bỏ ngàn vàng, Tế tự cả trăm năm, Chẳng bằng trong giây lát, Cúng dường bậc tự tu. Cùng dường vậy tốt hơn, Hơn trăm năm tế tự
Dầu tại bãi chiến trường Thắng ngàn ngàn quân địch, Tự thắng mình tốt hơn, Thật chiến thắng tối thượng.
Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích, Tốt hơn một câu nghĩa, Nghe xong, được tịnh lạc.
Những ai với chánh tâm, Khéo tu tập giác chi, Từ bỏ mọi ái nhiễm, Hoan hỷ không chấp thủ. Không lậu hoặc, sáng chói, Sống tịch tịnh ở đời.
Không vì mình, vì người. Không cầu được con cái, Không tài sản quốc độ, Không cầu mình thành tựu, Với việc làm phi pháp. Vị ấy thật trì giới, Có trí tuệ, đúng pháp.
Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm tên nắn tên, Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc trí nhiếp tự thân.
Nếu thấy bậc hiền trí, Chỉ lỗi và khiển trách, Như chỉ chỗ chôn vàng Hãy thân cận người trí! Thân cận người như vậy, Chỉ tốt hơn, không xấu.
Nhân mùa Vu lan báo hiếu, Hòa thượng chia sẻ về ý nghĩa Báo hiếu và giảng giải về nghiệp tái sanh, luân hồi thông qua hình ảnh đức Mục Kiền Liên cứu mẹ.  
Pháp vốn là không có, bởi có chúng sanh xúc đối với vạn vật, vì tríu mê, vì khổ sở mới có pháp, nên gọi là pháp tánh vốn không, hay gọi là bổn pháp vốn không tự tánh. Bởi chúng sanh tríu mê lăn nhào trong vạn vật, sanh pháp ác trược để phải khổ sầu, nên chư Phật mới bày ra pháp thanh thiện giải thoát khổ sầu ấy.
Pháp vốn là không có, bởi có chúng sanh xúc đối với vạn vật, vì tríu mê, vì khổ sở mới có pháp, nên gọi là pháp tánh vốn không, hay gọi là bổn pháp vốn không tự tánh. Bởi chúng sanh tríu mê lăn nhào trong vạn vật, sanh pháp ác trược để phải khổ sầu, nên chư Phật mới bày ra pháp thanh thiện giải thoát khổ sầu ấy.
Vui thay, Phật ra đời! Vui thay, Pháp được giảng! Vui thay, Tăng hòa hợp! Hòa hợp tu, vui thay!
Ai quy y Ðức Phật, Chánh pháp và chư tăng, Ai dùng chánh tri kiến, Thấy được bốn Thánh đế.
Ðệ tử bậc chánh giác, Không tìm cầu dục lạc, Dầu là dục chư thiên, Chỉ ưa thích ái diệt.
Không phỉ báng, phá hoại, Hộ trì giới căn bản, Ăn uống có tiết độ, Sàng tọa chỗ nhàn tịnh Chuyên chú tăng thượng tâm, Chính lời chư Phật dạy.
Chư Phật thường giảng dạy; Nhẫn, khổ hạnh tối thượng, Niết bàn, quả tối thượng; Xuất gia không phá người; Sa môn không hại người.
Người trí chuyên thiền định, Thích an tịnh viễn ly, Chư thiên đều ái kính, Bậc chánh giác, chánh niệm.
Vị chiến thắng không bại, Vị bước đi trên đời, Không dấu tích chiến thắng, Phật giới rộng mênh mông, Ai dùng chân theo dõi Bậc không để dấu tích?
Đức Phật chỉ cho các thành phần giai cấp trong xã hội (các hạng bậc chúng sanh) thấy, biết và cảm nhận những hiện tượng diễn biến trên thế giới.
Niềm tin bất động đối với Phật, Pháp, Tăng sẽ thành tựu bốn pháp, chứng quả giác ngộ.
Khả ái thay núi rừng, Chỗ người phàm không ưa, Vị ly tham ưa thích, Vì không tìm dục lạc.
Người tâm ý an tịnh, Lời an, nghiệp cũng an, Chánh trí, chơn giải thoát, Tịnh lạc là vị ấy.
Ai nhiếp phục các căn, Như đánh xe điều ngự, Mạn trừ, lậu hoặc dứt, Người vậy, Chư Thiên mến.
Tài sản không chất chứa, Ăn uống biết liễu tri, Tự tại trong hành xứ, “Không vô tướng, giải thoát, ” Như chim giữa hư không, Hướng chúng đi khó tìm.
Ðích đã đến, không sầu, Giải thoát ngoài tất cả, Ðoạn trừ mọi buộc ràng, Vị ấy không nhiệt não.
Như giữa đống rác nhớp, Quăng bỏ trên đường lớn, Chỗ ấy hoa sen nở, Thơm sạch, đẹp ý người.
Hoa chiên đàn, già la, Hoa sen, hoa vũ quý, Giữa những hương hoa ấy, Giới hương là vô thượng.
Như bông hoa tươi đẹp, Có sắc lại thêm hương; Cũng vậy, lời khéo nói, Có làm, có kết quả.
Không nên nhìn lỗi người, Người làm hay không làm. Nên nhìn tự chính mình. Có làm hay không làm.
Như ong đến với hoa, Không hại sắc và hương, Che chở hoa, lấy nhụy. Bậc Thánh đi vào làng.
Người nhặt các loại hoa, Ý đắm say, tham nhiễm, Bị thần chết mang đi, Như lụt trôi làng ngủ.
Ai chinh phục đất này Dạ ma, Thiên giới này? Ai khéo giảng Pháp cú, Như người khéo hái hoa?
Với kinh nghiệm giảng Hạ và thuyết giảng các đạo tràng trên 30 năm, Hòa thượng chia sẻ cùng Hội chúng An cư nhiều vấn đề từ đơn giản đến phúc tạp. Qua đó, thế hệ Tăng trẻ có cơ hội học tập từ chư Tôn đức kinh nghiệm hoằng pháp sau này.
Với kinh nghiệm giảng Hạ và thuyết giảng các đạo tràng trên 30 năm, Hòa thượng chia sẻ cùng Hội chúng An cư nhiều vấn đề từ đơn giản đến phúc tạp. Qua đó, thế hệ Tăng trẻ có cơ hội học tập từ chư Tôn đức kinh nghiệm hoằng pháp sau này.
Với kinh nghiệm giảng Hạ và thuyết giảng các đạo tràng trên 30 năm, Hòa thượng chia sẻ cùng Hội chúng An cư nhiều vấn đề từ đơn giản đến phúc tạp. Qua đó, thế hệ Tăng trẻ có cơ hội học tập từ chư Tôn đức kinh nghiệm hoằng pháp sau này.
Với kinh nghiệm giảng Hạ và thuyết giảng các đạo tràng trên 30 năm, Hòa thượng chia sẻ cùng Hội chúng An cư nhiều vấn đề từ đơn giản đến phúc tạp. Qua đó, thế hệ Tăng trẻ có cơ hội học tập từ chư Tôn đức kinh nghiệm hoằng pháp sau này.
“Bạch Thế Tôn, vì nhân gì, duyên gì, trước đây Thế Tôn ít chế cấm giới cho các Thanh văn, mà lúc ấy nhiều Tỳ-kheo tâm lại ưa thích học tập; còn ngày nay thì chế nhiều cấm giới, mà các Tỳ-kheo lại ít thích học tập?” Trong bài kinh, chúng ta sẽ được nghe Thượng tọa đọc và giảng trạch lời dạy của Đức Phật về vấn đề trên.
“Bạch Thế Tôn, vì nhân gì, duyên gì, trước đây Thế Tôn ít chế cấm giới cho các Thanh văn, mà lúc ấy nhiều Tỳ-kheo tâm lại ưa thích học tập; còn ngày nay thì chế nhiều cấm giới, mà các Tỳ-kheo lại ít thích học tập?” Trong bài kinh, chúng ta sẽ được nghe Thượng tọa đọc và giảng trạch lời dạy của Đức Phật về vấn đề trên.
Với cách góp ý nhẹ nhàng và những lời chia sẻ mộc mạc chân tình về quá trình tu học, Thượng tọa đã đem lại không khí an lành cho hội chúng mùa An cư 2018 lần đầu tiên tại Tổ đình Minh Đăng Quang - Vĩnh Long.
Tấm vải dơ bẩn nhuộm màu / Màu nào cũng xấu, ôi chao khó nhìn / Cũng vậy, tâm ý tánh tình / Nhiễm ô phiền não thì sinh cõi hèn. / Tấm vải không còn lấm lem / Nhuộm màu đẹp đẽ đáng khen dễ nhìn / Cũng vậy, tâm ý tánh tình / Không còn phiền não thì sinh cõi hiền. / Làm người sống cõi thượng thiên / Cõi trần mà cũng cõi thiền ngay đây.
Tấm vải dơ bẩn nhuộm màu / Màu nào cũng xấu, ôi chao khó nhìn / Cũng vậy, tâm ý tánh tình / Nhiễm ô phiền não thì sinh cõi hèn. / Tấm vải không còn lấm lem / Nhuộm màu đẹp đẽ đáng khen dễ nhìn / Cũng vậy, tâm ý tánh tình / Không còn phiền não thì sinh cõi hiền. / Làm người sống cõi thượng thiên / Cõi trần mà cũng cõi thiền ngay đây.
Đại lễ Tự tứ Tăng - Vu lan Báo hiếu PL.2562 - DL.2018 tại PV. Minh Đăng Quang (Q.2) sáng ngày 15/7 Mậu Tuất.
Hòa thượng tán thán công đức tụng kinh Dược sư của Phật tử trong suốt một tuần lễ tại Pháp viện. Hòa thượng phân tích những nội dung chính trong 12 lời nguyện của Đức Phật Dược sư. Qua đó, Ngài sách tấn Phật tử nên thường xuyên đọc tụng kinh Dược sư để: - Cảm nhận được tâm của Đức Phật, từ đó có tâm rạng rỡ như viên ngọc lưu ly trong lòng mình. - Gìn giữ thân, khẩu, ý trong sạch như lời dạy của Đức Phật Dược sư. - Tự soi sáng chính mình để chữa trị thân tâm. Hòa thượng kết luận: Với công đức nghe và niệm danh hiệu Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Phật tử sẽ tự soi rọi nội tâm mình, làm thầy thuốc cho chính mình.  
Khác thay duyên thế lợi, Khác thay đường Niết Bàn. Tỷ kheo, đệ tử Phật, Hãy như vậy thắng tri. Chớ ưa thích cung kính, Hãy tu hạnh viễn ly.
Tự nó chịu bất hạnh, Khi danh đến kẻ ngu. Vận may bị tổn hại, Ðầu nó bị nát tan.
Tháng tháng với ngọn cỏ, Người ngu có ăn uống Không bằng phần mười sáu Người hiểu pháp hữu vi.
Nghiệp làm không chánh thiện, Làm rồi sanh ăn năn, Mặt nhuốm lệ, khóc than, Lãnh chịu quả dị thục.
Người ngu nghĩ mình ngu, Nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, Thật xứng gọi chí ngu.
Ðêm dài cho kẻ thức, Ðường dài cho kẻ mệt, Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chơn diệu pháp.
Vô minh sanh ra hành, Hành sanh ra thức, Thức sanh ra danh sắc, Danh sắc sanh ra lục nhập, Lục nhập sanh ra xúc, Xúc sanh ra thọ, Thọ sanh ra ái, Ái sanh ra thủ, Thủ sanh ra hữu, Hữu sanh ra sanh, Sanh sanh ra tử, Sanh sanh ra tử.
Vô minh sanh ra hành, Hành sanh ra thức, Thức sanh ra danh sắc, Danh sắc sanh ra lục nhập, Lục nhập sanh ra xúc, Xúc sanh ra thọ, Thọ sanh ra ái, Ái sanh ra thủ, Thủ sanh ra hữu, Hữu sanh ra sanh, Sanh sanh ra tử, Sanh sanh ra tử.
Bài giảng tại Chùa Bồ Đề Đạo Tràng (Bình Dương) vào ngày 20/5/2018
Bài giảng tại chùa Bồ Đề Đạo Tràng vào ngày 22/04/2018 (nhằm 07/3/Mậu Tuất).
Mười hai nhơn duyên cũng ví như một đám rừng có mười hai cửa, như một bánh xe có mười hai cây căm, động một cây là động tất cả, vào một cửa là vào trọn trong rừng. Trong một nhơn duyên sẵn chứa mười một nhơn duyên khác, dính nhau như dây xích liên hoàn, chúng sanh vừa chạm phải một mắc là đã bị quấn đeo.
Mười hai nhơn duyên cũng ví như một đám rừng có mười hai cửa, như một bánh xe có mười hai cây căm, động một cây là động tất cả, vào một cửa là vào trọn trong rừng. Trong một nhơn duyên sẵn chứa mười một nhơn duyên khác, dính nhau như dây xích liên hoàn, chúng sanh vừa chạm phải một mắc là đã bị quấn đeo.
Phát triển Phật giáo Việt Nam thời hiện đại là nhiệm vụ không những của Tăng đoàn mà còn có sự góp phần của hàng cư sĩ tại gia.
Vấn đề tu tập các căn trong những bối cảnh khác nhau được Đức Phật chỉ dạy và giảng thuyết cho Tăng chúng nghe sự tương đồng và dị biệt thông qua hai bài: Kinh nói cho dân chúng Nagaravinda & Kinh căn tu tập trong Trung bộ kinh.
Trong pháp thoại này, Đại đức đưa ra hai định hướng. Định hướng 1 là HOÀN THIỆN TỰ THÂN gồm 4 ý lớn:  Học pháp, tu tập, hoằng pháp và xây dựng cơ sở vật chất. Định hướng 2:  HƯỚNG ĐẾN LỢI THA. Muốn phát triển đạo pháp, trước nhất là một vị lãnh đạo lý tưởng, sau đó là các yếu tố như tạo điều kiện cho người học Pháp, đào tạo người chuyên tu, tổ chức các khóa tu dành cho người xuất gia, tổ chức các khóa tu dành cho cư sĩ, dịch kinh - ấn hành Pháp bảo, phát triển văn hóa – truyền thông.
Vấn đề tu tập các căn trong những bối cảnh khác nhau được Đức Phật chỉ dạy và giảng thuyết cho Tăng chúng nghe sự tương đồng và dị biệt thông qua hai bài: Kinh nói cho dân chúng Nagaravinda & Kinh căn tu tập trong Trung bộ kinh.
Tổ chức tại Tịnh xá Ngọc Hòa - TP. Vĩnh Long, từ ngày 2 đến 8 tháng 9 năm Tân Mão, 2011.
Tổ chức tại TỊNH XÁ NGỌC CHUNG Từ ngày 26/4 - 02/5/2015 08 - 14/3 Ất Mùi
Lễ Bổ nhiệm Hòa thượng Giác Toàn - trụ trì Pháp viện Minh Đăng Quang.
Lễ mãn Hạ diễn ra tại Tổ đình Minh Đăng Quang vào chiều mùng 9 tháng 7 năm Mậu Tuất.
Những người tu Phật mà không y bát có hại gì không? - Nếu không có y bát hay là y bát có mà không dùng, thì gọi là bậc trời người đang tập học, nhìn xem Phật, chớ chưa gọi đúng là người đã tu theo như Phật. Vì, định huệ có là do giới, giới là y bát giáo lý Khất Sĩ, nếu không y bát thì đâu có giới, cõi Phật, bằng mà giới của người chế ra vầy khác, thì gọi đó là giới của trời người thôi.
Những người tu Phật mà không y bát có hại gì không? - Nếu không có y bát hay là y bát có mà không dùng, thì gọi là bậc trời người đang tập học, nhìn xem Phật, chớ chưa gọi đúng là người đã tu theo như Phật. Vì, định huệ có là do giới, giới là y bát giáo lý Khất Sĩ, nếu không y bát thì đâu có giới, cõi Phật, bằng mà giới của người chế ra vầy khác, thì gọi đó là giới của trời người thôi.
Y là Pháp, Bát là Đạo. Tức là đạo pháp đường chơn truyền dạy, có y bát mới có chơn như. Luật pháp cũng như manh áo che tâm, sự đi sưu tầm gom góp kinh luật luận, cũng như lượm từ miếng vải đâu kết lại, cho thành kho tạng. 
Y là Pháp, Bát là Đạo. Tức là đạo pháp đường chơn truyền dạy, có y bát mới có chơn như. Luật pháp cũng như manh áo che tâm, sự đi sưu tầm gom góp kinh luật luận, cũng như lượm từ miếng vải đâu kết lại, cho thành kho tạng. 
Hình ảnh chư Tăng Ni sinh hoạt tu tập hằng ngày trong khu nội viện tại Tổ đình Minh Đăng Quang – Vĩnh Long do Hòa thượng Giác Giới làm thiền chủ, Hòa thượng Giác Minh làm Giám luật. Chư Tăng mỗi ngày thực hành 4 thời thiền hành, 2 thời thiền tọa, một hoặc hai nghe pháp thoại, ăn cơm trong chánh niệm. Mỗi tuần chư Tăng pháp đàm một lần, dò Luật một lần, sám hối một lần.
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ năm 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ năm 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ năm 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ năm 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Trong Pháp thoại này, Đại đức đã chia sẻ  2 vai trò của người cư sĩ: Hộ trì Tam Bảo và thừa tự giáo pháp. Hộ trì Tam Bảo bằng tịnh tài, tịnh vật để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng xuất gia tu học. Thừa tự pháp bằng cách học hỏi trực tiếp hoặc qua mạng, nghiên tầm, thảo luận, tu tập theo 3 cấp độ: Dứt ác, làm lành, thanh tịnh tâm ý hoặc tu theo 37 phẩm trợ đạo tùy theo căn tánh của mỗi người, và cuối cùng là Duy trì Phật pháp bằng cách cho con cái xuất gia hoặc tự mình xuất gia.
Chương trình là sự chia sẻ của Đại đức với đại chúng về: nhân duyên xuất gia, về quá trình học tập và tu học của Người khi còn là Tăng sinh; quá trình phụng sự cho đạo pháp tại Học viện Phật giáo Việt Nam (TP. Hồ Chí Minh), phụng sự trong Hệ phái Khất sĩ và nhiều Phật sự khác. Qua đây, đại chúng nhận ra được tấm gương nỗ lực tinh cần của Đại đức trong việc tu tập và xả thân phụng sự. Bên cạnh đó là lòng tri ân, Đại đức  kính dâng lên chư Tôn đức Tăng Ni đã dìu dắt, dạy bảo cho Người, là lời cảm ơn các Phật tử đã trợ duyên cho Đại đức trong thời gian tu học.  
"Kinh bại vong" là bài kinh do Đức Phật thuyết theo lời thỉnh cầu của chư thiên. Trên cơ sở phân tích bài kinh này, Đại đức đã làm rõ mười hai nguyên nhân chủ yếu đưa đến những thất bại, khổ đau trong cuộc sống con người. Ở từng nguyên nhân, Đại đức cũng đã đưa ra những ví dụ cụ thể để dẫn chứng, đồng thời, cũng chỉ ra cách sống, cách tu tập để khắc phục mười hai nguyên nhân trên. Từ đó, cánh cửa bại vong sẽ khép lại, cánh cửa hạnh phúc sẽ mở ra. "Kinh bại vong" là một trong những bài kinh thể hiện rõ mục tiêu quan trọng của Đức Phật trong sự nghiệp hoằng pháp độ sinh: Giúp chúng sinh lìa khổ được vui.  
  Giáo lý y bát không phải dễ, không phải tự ai muốn bước ra hành là được, nếu kẻ bắt chước, ham vui hoặc không thông chơn lý, chẳng có giới hạnh, không hiểu chánh pháp, chẳng biết cách học tu, không rõ sự quý giá của muôn đời, chẳng nếm được mùi vị của Niết-bàn đạo lý, thì khó mà thật hành, khó mà chắc chắn bền dài, khó mà giữ hạnh đắc đạo, và nhứt là sẽ bị ma vương phá đổ, chư thiên xô đùa, nhơn loài bắt tội, thú dữ hại thân, chớ dễ gì đủ can đảm diệt lòng tự trọng, để đứng ra đi xin ăn, bữa no bữa đói, thấp thỏi ăn mày cho chúng khi ngạo chửi la, làm như kẻ tội nhơn bị sa thải phải mặc áo tù, đầu cạo trọc, xấu hổ hơn kẻ tật nguyền.  ​​​​​​​
  Giáo lý y bát không phải dễ, không phải tự ai muốn bước ra hành là được, nếu kẻ bắt chước, ham vui hoặc không thông chơn lý, chẳng có giới hạnh, không hiểu chánh pháp, chẳng biết cách học tu, không rõ sự quý giá của muôn đời, chẳng nếm được mùi vị của Niết-bàn đạo lý, thì khó mà thật hành, khó mà chắc chắn bền dài, khó mà giữ hạnh đắc đạo, và nhứt là sẽ bị ma vương phá đổ, chư thiên xô đùa, nhơn loài bắt tội, thú dữ hại thân, chớ dễ gì đủ can đảm diệt lòng tự trọng, để đứng ra đi xin ăn, bữa no bữa đói, thấp thỏi ăn mày cho chúng khi ngạo chửi la, làm như kẻ tội nhơn bị sa thải phải mặc áo tù, đầu cạo trọc, xấu hổ hơn kẻ tật nguyền.  
Nếu là ta sống có ích lợi cho người, thì người khác họ cũng sẽ sống có ích lợi lại cho ta, y theo lẽ tiến hóa, chẳng bảo cho ai tự lo lấy mình, và không để cho ai có lòng tư kỷ. Mà kẻ nào sái đạo luật, thì phải bị phạt răn khổ sở thất bại đau sầu.
Nếu là ta sống có ích lợi cho người, thì người khác họ cũng sẽ sống có ích lợi lại cho ta, y theo lẽ tiến hóa, chẳng bảo cho ai tự lo lấy mình, và không để cho ai có lòng tư kỷ. Mà kẻ nào sái đạo luật, thì phải bị phạt răn khổ sở thất bại đau sầu.
Dù ngàn lời nói với nhau/ Nếu đều vô nghĩa, ích đâu cho đời/ Chẳng bằng chỉ nói một lời/ Một lời nghĩa lý, mọi người mừng thay/ Nghe xong tâm tịnh lạc ngay.
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ năm 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Hòa thượng giảng tại Đạo tràng An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ năm 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long).
Trong buổi pháp thoại này, Đại đức chọn đề tài "Sống" để chia sẻ với các bạn trẻ về một số cách sống phổ biến trong giới sinh viên học sinh hiện nay. Trên quan điểm của nhà Phật, Đại đức đã phân tích những điểm tiêu cực trong 5 cách sống: sống ảo ; sống ích kỷ, vô cảm; sống thử; sống thực dụng; sống như đã chết. Bên cạnh đó, Đại đức cũng phân tích những điểm tích cực trong năm cách sống sau: sống khỏe ;sống đạo đức hiền thiện; sống cao cả, hướng thượng; sống trung đạo; sống thực tại hiện tiền. Buổi pháp thoại đã góp phần giúp các bạn trẻ định hướng cho mình một cách sống hướng thượng, gần với cách sống theo lời dạy của Đức Phật.
Pháp thoại do Hòa thượng thuyết giảng đến với Đại chúng hành giả mùa An Cư tại Tu viện Tường Vân, huyện Bình Chánh
Pháp thoại do Hòa thượng thuyết giảng đến với Đại chúng hành giả mùa An Cư tại Tu viện Tường Vân, huyện Bình Chánh
Bồ tát Quan Thế Âm là một người có khả năng lắng nghe. Lắng nghe tiếng kêu bi thương của con người để tìm tới mà cứu độ. Hạnh của ngài là hạnh lắng nghe với tâm từ bi. Trong khi trì tụng danh hiệucủa đức Quan Thế Âm Bồ tát Avalokitesvara thì chúng ta tiếp xúc được với năng lượng của tình thươngtrong trái tim của chúng ta. Chúng ta tiếp xúc được với năng lượng tình thương lớn của đức Bồ tát. Khi trì tụng như vậy chúng ta chế tác được năng lượng hùng hậu, năng lượng tập thể của tăng đoàn. Chúng ta mở lòng ra tiếp nhận năng lượng đó để những đau nhức, căng thẳng trong thân và trong tâm của chúng ta được ôm ấp và chuyển hóa.
BÁT CHÁNH ĐẠO tức là tám cách hành đạo, theo lẽ chánh của bậc thánh nhân, cũng kêu là bát thánh đạo, là pháp tự độ độ tha, sống chung với tất cả, để cùng đưa nhau lên đến nơi cùng tột là Niết-bàn. Bát chánh đạo cũng gọi là chánh pháp hay trung đạo, gồm cả sự học và hành. Bát chánh đạo là tám cửa, tám đường vui, tám pháp giải thoát, tám tia sáng… là con đường tiến hóa của chúng sanh, tức là chơn lý của võ trụ, mà muôn loại đều ở trong. Bát chánh đạo là bà mẹ hay khí thở, hoặc như mặt đất, cái nhà, mà người, Trời, không bao giờ thiếu sót, lạc loài. Tất cả chúng sanh đều ở trong đạo bát chánh, cõi đời có cũng do bát chánh đạo. Bát chánh đạo là sự sống, hay tâm hồn của chúng sanh, mà các tông chi giáo lý văn minh, thảy từ đó mà ra cả. Bát chánh đạo không phải riêng của một đạo giáo nào, chính đạo là nấc thang chung của toàn thể.  
Muốn thành Phật là phải tu, học hành đúng y theo pháp, muốn đến với Pháp thì phải làm Tăng trong sạch, muốn làm Tăng không phiền não thì trước tập học tu cư sĩ, dứt ác, xa lần nghiệp tội, Phật và Tăng cũng như Tổ và Thầy, hay là Như Lai và Bồ tát, còn Pháp là Giáo lý ánh sáng hào quang phún, phóng, nói phun ra tiếp dẫn đạo sư. Giới luật thanh tịnh tu tâm là miếng đất Tịnh độ Cực lạc. Kẻ mà nhờ giác ngộ nơi pháp nên được xuất gia nhập đạo, tức là được hào quang tiếp dẫn, đưa vào giáo hội Tăng già bất thối, là nhà của Phật. Xưa nay giáo lý chỉ đúng như vậy, chớ chẳng có xa gần đâu cả. Nhưng với kẻ ác thì dễ gì giác ngộ mà chẳng phải gọi là xa. Còn người trí kẻ thiện, thì tịnh độ là chỉ có ở nơi người trong sạch dứt nghiệp. Đó cũng là, còn sự nói quyền, chớ đúng ra triết lý chơn lý thì chơn như là Phật Tổ, trí huệ là Bồ tát tăng sư, thiền định là hào quang tòa sen tiếp dẫn, giới luật là xứ Tây Phương Cực lạc.
Mở đầu bài pháp, Hòa thượng phân tích giá trị của đạo đức trong cuộc sống của người Phật tử. Hòa thượng lưu ý Phật tử nên thường xuyên quán chiếu để thấy mình có thực sự quay về nương tựa Tam bảo và giữ gìn ngũ giới hay không? Qua bài kinh Giáo thọ Thi ca la việt, bằng những ví dụ cụ thể, Hòa thượng đã nhấn mạnh lời dạy của Đức Phật đối với hàng Phật tử: Hãy thực hành nếp sống bỏ ác, làm thiện, làm những điều lợi ích cho mình, cho người. Hòa thượng cũng nhắc nhở trách nhiệm của người Phật tử đối với Phật pháp và với chúng sanh: Có niềm tin bất động với ba ngôi Tam bảo, ưa nghe diệu pháp, bố thí rộng rãi với tâm ly xả. Bài pháp thoại đã đề cập một cách toàn diện và sâu sắc những trách nhiệm đạo đức của người Phật tử đối với bản thân, đối với gia đình và xã hội, đối với Phật pháp và chúng sanh.  
Mở đầu bài pháp, Hòa thượng đặt vấn đề: người tu, nếu giữ được phẩm hạnh của người xuất gia, sẽ có an lạc, hạnh phúc. Quý Tăng, Ni hãy tự quán chiếu, ôn lại vị trí của người xuất gia, xem mình đã an định được đến đâu? Người tu thường xuyên thiền quán, đoạn trừ tham, sân, si, học hạnh thiểu dục tri túc để thực sự là người xuất thế tục gia, xuất phiền não gia, xuất tam giới gia. Khi thân, tâm đều xuất gia, đó là lúc người tu đã đạt phạm hạnh cao quí, thanh tịnh, quyết tâm dứt trừ phiền não, nhiễm ô. Hòa thượng kết thúc bài Pháp bằng việc sách tấn quí Tăng Ni theo lời dạy của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang: "Thân trong sạch ấy là xứ Phật. Khẩu trong sạch ấy là Pháp Phật. Ý trong sạch ấy là con Phật. Tâm trong sạch ấy là Đức Phật".
“Này Thiện tri thức, pháp môn của ta đây lấy Định Tuệ làm gốc, đại chúng chớ lầm nói Định Tuệ riêng, Định Tuệ một thể không phải là hai. Định là thể của Tuệ, Tuệ là dụng của Định, ngay khi Tuệ, Định ở tại Tuệ, ngay khi Định, Tuệ ở tại Định, nếu biết được nghĩa này tức là cái học Định Tuệ bình đẳng. Những người học đạo chớ nói trước Định rồi sau mới phát Tuệ, trước Tuệ rồi sau mới phát Định, mỗi cái riêng khác. Khởi cái thấy như thế ấy thì pháp có hai tướng. Miệng nói lời thiệïn mà trong tâm không thiện thì không có Định Tuệ, Định Tuệ không bình đẳng. Nếu tâm, miệng đều là thiện, trong ngoài một thứ, Định Tuệ tức là bình đẳng. Tự ngộ tu hành không ở chỗ tranh cãi, nếu tranh trước sau tức là đồng với người mê, không dứt sự hơn thua, trở lại tăng ngã và pháp, không lìa bốn tướng. Này Thiện tri thức, Định Tuệ ví như cái gì ? Ví như ngọn đèn và ánh sáng. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không đèn tức là tối, đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai mà thể vốn đồng một, pháp Định Tuệ này cũng lại như thế".
Khất Sĩ giống như người chết ông già, hay trẻ nhỏ mới sanh, hoặc như người bịnh, giống kẻ cổ nhân, in như người đi du lịch; nào khác kẻ dạo đồng, tắm biển, hứng mát bờ sông, đi đâu chỉ đem theo một cái chén to bằng đất, để đựng đồ ăn là đủ. Vừa là để tránh sự bối rối thiếu hụt tay không, khi đến bữa, vừa là gọn tiện một cái chén đủ đựng chung ăn trộn, để khi vào bụng rồi, thì nó cũng lộn xộn in nhau. 
Khất Sĩ giống như người chết ông già, hay trẻ nhỏ mới sanh, hoặc như người bịnh, giống kẻ cổ nhân, in như người đi du lịch; nào khác kẻ dạo đồng, tắm biển, hứng mát bờ sông, đi đâu chỉ đem theo một cái chén to bằng đất, để đựng đồ ăn là đủ. Vừa là để tránh sự bối rối thiếu hụt tay không, khi đến bữa, vừa là gọn tiện một cái chén đủ đựng chung ăn trộn, để khi vào bụng rồi, thì nó cũng lộn xộn in nhau. 
Bởi đạo Phật là đạo Khất Sĩ du tăng, con đường của bậc giác ngộ, đi theo con đường ấy là đến với chơn lý của võ trụ, để đạt mục đích niết-bàn, Khất Sĩ y bát là bậc thượng trí, sau sự học của lớp thế gian. Kẻ du học ấy phải đi xin ăn, mặc một bộ áo ba manh, và một cái chén đựng đồ ăn, để nhẹ mình lo tu học, và đi khắp xứ.
Bởi đạo Phật là đạo Khất Sĩ du tăng, con đường của bậc giác ngộ, đi theo con đường ấy là đến với chơn lý của võ trụ, để đạt mục đích niết-bàn, Khất Sĩ y bát là bậc thượng trí, sau sự học của lớp thế gian. Kẻ du học ấy phải đi xin ăn, mặc một bộ áo ba manh, và một cái chén đựng đồ ăn, để nhẹ mình lo tu học, và đi khắp xứ.
Nếu chúng ta chia thành 5 phần chính: Phật, Pháp (giáo lý), Tăng, quan điểm ngoại đạo, vũ trụ quan Phật giáo thì Trung Bộ Kinh chuyển tải đầy đủ 5 phần này...
Nếu chúng ta chia thành 5 phần chính: Phật, Pháp (giáo lý), Tăng, quan điểm ngoại đạo, vũ trụ quan Phật giáo thì Trung Bộ Kinh chuyển tải đầy đủ 5 phần này...
Đối với người mới bắt đầu tìm hiểu về giáo lý của Đức Phật, Văn – Tư – Tu là ba giai đoạn cần thiết để phát triển tâm đạo của mỗi người. Với bài pháp “Con về nương tựa Phật”, Hòa thượng đã giúp chúng ta hiểu chân chính về các khái niệm quy y Tam Bảo, việc nương tựa ba ngôi báu, Phật tử thuần thành, người xuất gia chân chánh và việc phát triển tâm từ trong giáo pháp của Đức Phật. Qua đó, người nghe có thể hiểu rõ ràng hơn về nhiệm vụ của người Phật tử trên con đường phát triển đạo tâm và hoằng truyền chánh pháp.
Khi đã quán sát đúng như thật rằng thân tâm năm uẩn chẳng phải là Ta, hành giả sanh ra nhàm chán (=yếm ly) đối với năm uẩn và do đó rời được sự tham ái mà giải thoát khỏi các lậu hoặc. Cần vạch rõ đường lối phá bỏ sự cố chấp bám vào thân tâm năm uẩn nầy, lấy đó là cái Ta, cái Tự ngã, vốn chẳng có thật và là một tà kiến cần phải quét sạch khỏi tâm thanh tịnh.
Khi đã quán sát đúng như thật rằng thân tâm năm uẩn chẳng phải là Ta, hành giả sanh ra nhàm chán (=yếm ly) đối với năm uẩn và do đó rời được sự tham ái mà giải thoát khỏi các lậu hoặc. Cần vạch rõ đường lối phá bỏ sự cố chấp bám vào thân tâm năm uẩn nầy, lấy đó là cái Ta, cái Tự ngã, vốn chẳng có thật và là một tà kiến cần phải quét sạch khỏi tâm thanh tịnh.
Khi đã quán sát đúng như thật rằng thân tâm năm uẩn chẳng phải là Ta, hành giả sanh ra nhàm chán (=yếm ly) đối với năm uẩn và do đó rời được sự tham ái mà giải thoát khỏi các lậu hoặc. Cần vạch rõ đường lối phá bỏ sự cố chấp bám vào thân tâm năm uẩn nầy, lấy đó là cái Ta, cái Tự ngã, vốn chẳng có thật và là một tà kiến cần phải quét sạch khỏi tâm thanh tịnh.  
Khi đã quán sát đúng như thật rằng thân tâm năm uẩn chẳng phải là Ta, hành giả sanh ra nhàm chán (=yếm ly) đối với năm uẩn và do đó rời được sự tham ái mà giải thoát khỏi các lậu hoặc. Cần vạch rõ đường lối phá bỏ sự cố chấp bám vào thân tâm năm uẩn nầy, lấy đó là cái Ta, cái Tự ngã, vốn chẳng có thật và là một tà kiến cần phải quét sạch khỏi tâm thanh tịnh.  
9 điểm quan trọng trong Chương trình hoạt động Nhiệm kỳ VIII. 1.Phát huy trí tuệ tập thể, giữ vững kỷ cương, giới luật và nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp trong xây dựng, phát triển giáo hội vững mạnh trong hội nhập quốc tế, kiên định lý tưởng: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội. 2.Đổi mới, sáng tạo trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, trong phương thức hướng dẫn phật tử. định hướng pháp môn tu tập phù hợp với xã hội hiện đại, với mọi tầng lớp trong xã hội và xiển dương đạo đức học phật giáo góp phần xây dựng và làm đẹp nền đạo đức xã hội. 3.Nâng cao công tác quản lý chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và tu học tại các cơ sở đào tạo tăng ni của giáo hội phật giáo việt nam. 4.Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa phật giáo việt nam đảm bảo có sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện đại góp phần xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế. 5.Mở rộng hoạt động đối ngoại đa phương theo định hướng ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân. chủ động, tích cực trong quan hệ đối ngoại với các tổ chức phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới. kết nối chặt chẽ với các hội phật tử việt nam ở nước ngoài. 6.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu phật học và nâng cao chất lượng học thuật phật giáo. tập trung nghiên cứu có định hướng, khẳng định và làm nổi bật tinh hoa, bản sắc của phật giáo việt nam. 7.Tăng cường công tác giám sát, kiểm soát các hoạt động phật sự, quản lý tự viện, sinh hoạt của tăng ni theo đúng hiến chương giáo hội phật giáo việt nam và pháp luật nhà nước. 8.Đẩy mạnh truyền thông phật giáo như một kênh hoằng pháp và chuyển tải các hoạt động phật sự vào đời sống xã hội nhằm nêu cao giá trị từ bi, trí tuệ của đạo phật, hình ảnh tốt đẹp của tăng ni, phật tử, của tổ chức giáo hội phật giáo việt nam các cấp trong sự nghiệp phụng đạo, yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xhcn. 9.Định hướng tự chủ tài chính trong các hoạt động phật sự của giáo hội qua việc xây dựng mô hình kinh tế phật giáo ở những lĩnh vực hợp lý. khuyến khích phát triển kinh tế tự túc của các cơ sở tự viện. kêu gọi tăng ni, phật tử tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm lo công tác an sinh xã hội cho cộng đồng xã hội.
9 điểm quan trọng trong Chương trình hoạt động Nhiệm kỳ VIII. 1.Phát huy trí tuệ tập thể, giữ vững kỷ cương, giới luật và nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp trong xây dựng, phát triển giáo hội vững mạnh trong hội nhập quốc tế, kiên định lý tưởng: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội. 2.Đổi mới, sáng tạo trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, trong phương thức hướng dẫn phật tử. định hướng pháp môn tu tập phù hợp với xã hội hiện đại, với mọi tầng lớp trong xã hội và xiển dương đạo đức học phật giáo góp phần xây dựng và làm đẹp nền đạo đức xã hội. 3.Nâng cao công tác quản lý chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và tu học tại các cơ sở đào tạo tăng ni của giáo hội phật giáo việt nam. 4.Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa phật giáo việt nam đảm bảo có sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện đại góp phần xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế. 5.Mở rộng hoạt động đối ngoại đa phương theo định hướng ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân. chủ động, tích cực trong quan hệ đối ngoại với các tổ chức phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới. kết nối chặt chẽ với các hội phật tử việt nam ở nước ngoài. 6.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu phật học và nâng cao chất lượng học thuật phật giáo. tập trung nghiên cứu có định hướng, khẳng định và làm nổi bật tinh hoa, bản sắc của phật giáo việt nam. 7.Tăng cường công tác giám sát, kiểm soát các hoạt động phật sự, quản lý tự viện, sinh hoạt của tăng ni theo đúng hiến chương giáo hội phật giáo việt nam và pháp luật nhà nước. 8.Đẩy mạnh truyền thông phật giáo như một kênh hoằng pháp và chuyển tải các hoạt động phật sự vào đời sống xã hội nhằm nêu cao giá trị từ bi, trí tuệ của đạo phật, hình ảnh tốt đẹp của tăng ni, phật tử, của tổ chức giáo hội phật giáo việt nam các cấp trong sự nghiệp phụng đạo, yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xhcn. 9.Định hướng tự chủ tài chính trong các hoạt động phật sự của giáo hội qua việc xây dựng mô hình kinh tế phật giáo ở những lĩnh vực hợp lý. khuyến khích phát triển kinh tế tự túc của các cơ sở tự viện. kêu gọi tăng ni, phật tử tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm lo công tác an sinh xã hội cho cộng đồng xã hội.
9 điểm quan trọng trong Chương trình hoạt động Nhiệm kỳ VIII. 1.Phát huy trí tuệ tập thể, giữ vững kỷ cương, giới luật và nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp trong xây dựng, phát triển giáo hội vững mạnh trong hội nhập quốc tế, kiên định lý tưởng: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội. 2.Đổi mới, sáng tạo trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, trong phương thức hướng dẫn phật tử. định hướng pháp môn tu tập phù hợp với xã hội hiện đại, với mọi tầng lớp trong xã hội và xiển dương đạo đức học phật giáo góp phần xây dựng và làm đẹp nền đạo đức xã hội. 3.Nâng cao công tác quản lý chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và tu học tại các cơ sở đào tạo tăng ni của giáo hội phật giáo việt nam. 4.Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa phật giáo việt nam đảm bảo có sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện đại góp phần xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế. 5.Mở rộng hoạt động đối ngoại đa phương theo định hướng ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân. chủ động, tích cực trong quan hệ đối ngoại với các tổ chức phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới. kết nối chặt chẽ với các hội phật tử việt nam ở nước ngoài. 6.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu phật học và nâng cao chất lượng học thuật phật giáo. tập trung nghiên cứu có định hướng, khẳng định và làm nổi bật tinh hoa, bản sắc của phật giáo việt nam. 7.Tăng cường công tác giám sát, kiểm soát các hoạt động phật sự, quản lý tự viện, sinh hoạt của tăng ni theo đúng hiến chương giáo hội phật giáo việt nam và pháp luật nhà nước. 8.Đẩy mạnh truyền thông phật giáo như một kênh hoằng pháp và chuyển tải các hoạt động phật sự vào đời sống xã hội nhằm nêu cao giá trị từ bi, trí tuệ của đạo phật, hình ảnh tốt đẹp của tăng ni, phật tử, của tổ chức giáo hội phật giáo việt nam các cấp trong sự nghiệp phụng đạo, yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xhcn. 9.Định hướng tự chủ tài chính trong các hoạt động phật sự của giáo hội qua việc xây dựng mô hình kinh tế phật giáo ở những lĩnh vực hợp lý. khuyến khích phát triển kinh tế tự túc của các cơ sở tự viện. kêu gọi tăng ni, phật tử tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm lo công tác an sinh xã hội cho cộng đồng xã hội.
9 điểm quan trọng trong Chương trình hoạt động Nhiệm kỳ VIII. 1.Phát huy trí tuệ tập thể, giữ vững kỷ cương, giới luật và nêu cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp trong xây dựng, phát triển giáo hội vững mạnh trong hội nhập quốc tế, kiên định lý tưởng: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội. 2.Đổi mới, sáng tạo trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, trong phương thức hướng dẫn phật tử. định hướng pháp môn tu tập phù hợp với xã hội hiện đại, với mọi tầng lớp trong xã hội và xiển dương đạo đức học phật giáo góp phần xây dựng và làm đẹp nền đạo đức xã hội. 3.Nâng cao công tác quản lý chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và tu học tại các cơ sở đào tạo tăng ni của giáo hội phật giáo việt nam. 4.Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa phật giáo việt nam đảm bảo có sự tiếp nối giữa truyền thống và hiện đại góp phần xây dựng nền văn hóa việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế. 5.Mở rộng hoạt động đối ngoại đa phương theo định hướng ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân. chủ động, tích cực trong quan hệ đối ngoại với các tổ chức phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới. kết nối chặt chẽ với các hội phật tử việt nam ở nước ngoài. 6.Đẩy mạnh công tác nghiên cứu phật học và nâng cao chất lượng học thuật phật giáo. tập trung nghiên cứu có định hướng, khẳng định và làm nổi bật tinh hoa, bản sắc của phật giáo việt nam. 7.Tăng cường công tác giám sát, kiểm soát các hoạt động phật sự, quản lý tự viện, sinh hoạt của tăng ni theo đúng hiến chương giáo hội phật giáo việt nam và pháp luật nhà nước. 8.Đẩy mạnh truyền thông phật giáo như một kênh hoằng pháp và chuyển tải các hoạt động phật sự vào đời sống xã hội nhằm nêu cao giá trị từ bi, trí tuệ của đạo phật, hình ảnh tốt đẹp của tăng ni, phật tử, của tổ chức giáo hội phật giáo việt nam các cấp trong sự nghiệp phụng đạo, yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xhcn. 9.Định hướng tự chủ tài chính trong các hoạt động phật sự của giáo hội qua việc xây dựng mô hình kinh tế phật giáo ở những lĩnh vực hợp lý. khuyến khích phát triển kinh tế tự túc của các cơ sở tự viện. kêu gọi tăng ni, phật tử tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm lo công tác an sinh xã hội cho cộng đồng xã hội.
Chánh pháp xuất hiện hôm nay ắt không phải sớm hay muộn, vì đã đến lúc mà chắc hẳn không còn ai khen hay chê, mừng hay giận, thương hay ghét, buồn hay vui, và ai nấy cũng đều đang có tu, muốn tu tất cả. Bài này không phải của nhà sư Đại hay Tiểu thừa, mà là do giới luật của Phật, do các bậc Khất sĩ đã thật hành chín chắn Tứ y pháp, pháp Chánh đẳng Chánh giác, giác ngộ.
Chánh pháp xuất hiện hôm nay ắt không phải sớm hay muộn, vì đã đến lúc mà chắc hẳn không còn ai khen hay chê, mừng hay giận, thương hay ghét, buồn hay vui, và ai nấy cũng đều đang có tu, muốn tu tất cả. Bài này không phải của nhà sư Đại hay Tiểu thừa, mà là do giới luật của Phật, do các bậc Khất sĩ đã thật hành chín chắn Tứ y pháp, pháp Chánh đẳng Chánh giác, giác ngộ.
Pháp chánh giác có hai chơn là pháp học và pháp hành. Còn hành thì còn đạo, hết hành thì hết đạo. Cho nên đời nay, người ta gọi đời mạt pháp là bởi có học chớ không có hành, nghĩa là người ta không có thật hành đúng theo pháp chánh giác của chư Phật nữa, tức là người ta hành theo tà pháp còn học thì học theo chánh pháp. Tuy nói vậy, chớ người ta cũng không nhận sự học của người ta, theo kinh điển là chánh nữa, vì người ta nói: “Xứ này không có Phật, và thời này là mạt pháp, hết pháp rồi. Kẻ đang tu học bây giờ đây là đạo của riêng mỗi người, chớ không phải đạo Phật nữa”. Người ta nói: “Đời nay kẻ tu đều là tà đạo hết vậy”.
Pháp chánh giác có hai chơn là pháp học và pháp hành. Còn hành thì còn đạo, hết hành thì hết đạo. Cho nên đời nay, người ta gọi đời mạt pháp là bởi có học chớ không có hành, nghĩa là người ta không có thật hành đúng theo pháp chánh giác của chư Phật nữa, tức là người ta hành theo tà pháp còn học thì học theo chánh pháp. Tuy nói vậy, chớ người ta cũng không nhận sự học của người ta, theo kinh điển là chánh nữa, vì người ta nói: “Xứ này không có Phật, và thời này là mạt pháp, hết pháp rồi. Kẻ đang tu học bây giờ đây là đạo của riêng mỗi người, chớ không phải đạo Phật nữa”. Người ta nói: “Đời nay kẻ tu đều là tà đạo hết vậy”.
Chơn lý không phải nói vắn tắt, là cái lẽ thật yên lặng tự nhiên ấy mà hiểu được. Mà cần phải biết lẽ thật, nguyên nhân nguồn gốc của chúng sanh vạn vật và các pháp, từ trong cái yên lặng tự nhiên sanh có ra bằng cách nào? Cách đi tới ra sao và sẽ đến đâu? Cái yên lặng tự nhiên trước là sao và cái yên lặng tự nhiên sau này là sao? Có hiểu như thế, chúng sanh mới đi trúng đường và đến nơi kết quả được.
Tứ y pháp hay còn gọi là Tứ y Chánh pháp, Tứ Thánh dụng, đây là 4 pháp mà mỗi vị xuất gia phải thực hiện trong suốt quá trình tu tập. Tổ sư khẳng định rằng Tứ y Pháp tức là con đường Trung đạo, là chủng tử của bậc Thánh, cho nên còn gọi Tứ y pháp là Chánh pháp.
Chơn lý là trường học chung của tất cả, chơn lý không phải là đời hay đạo. Chơn lý không phải là tông giáo hay đảng phái, chủ nghĩa, giáo phái nào? Chơn lý không phải là một vị Phật, một vị Trời nào! Chơn lý không phải là tên chơn lý lẽ thật gì cả; chỉ mượn danh từ tạm gọi để phân biệt, nên kêu là chơn lý thôi! Cũng như tiếng Phật, nghĩa tạm phân biệt là sự giác ngộ vậy. Chơn lý là võ trụ, là đại đồng của chúng sanh tất cả.
Hòa thượng muốn nhắn nhủ mỗi vị cần phải nỗ lực tinh tấn “sống chung tu học” định kỳ thông qua các khóa tu truyền thống của Hệ phái, khóa Bồi dưỡng trụ trì… để cùng nhau nung đúc, rèn luyện, tăng trưởng cái sống, cái biết, cái linh nơi tự thân, cùng nhau thực hiện lời dạy của Tổ sư, góp phần củng cố, ổn định, phát triển Tăng đoàn Khất sĩ ngày càng vững mạnh về hình thức lẫn phẩm chất, năng lực tu tập. Làm được thế, chúng ta và các thế hệ đệ tử tiếp nối mới có thể thắp sáng ngọn đèn chơn lý của Tổ sư và giáo pháp Khất sĩ thường trụ trong đời.
Thượng tọa cho rằng cõi Phật khi đã nắm chắc về mặt nhận thức thì có thể triển khai, biểu hiện trên nhiều khía cạnh như văn chương, thi ca, họa vẽ, điêu khắc… để thấy rằng cõi Phật không chỉ là lý tưởng mà một hành giả chân thành hướng đến, không chỉ là cảnh giới siêu nhiên trác tuyệt mà còn là cảnh giới đầy sắc màu hiện thực và sinh động vô cùng.
Hòa thượng nhấn mạnh 3 vấn đề chính mà người trụ trì phải có, đó là nhân cách đạo đức, năng lực kiến thức và tâm đức bao dung. Thế nên, vì đạo nghiệp muôn đời, vì sứ mạng thiêng liêng “Kế vãng khai lai, báo Phật ân đức”, chúng con nguyện “Y giáo phụng hành”, thực tập 3 điều căn bản mà Hòa thượng đã truyền trao, để làm trọn trọng trách của người trụ trì, không phụ công lao của chư Tôn đức vì đàn hậu học.
Hòa thượng đã chia sẻ cùng đại chúng: “Một vài kinh nghiệm trong trách vụ trụ trì và chứng minh Đạo Phật Khất Sĩ nối truyền 5 công hạnh của đức Phật”. Hoà thượng đã nhắc các Tăng Ni, đặc biệt đối với những vị tân trụ trì rằng hầu hết chư Tăng Ni đều sẽ đến giai đoạn nhận trọng trách trụ trì, quản lý tự viện, dạy dỗ đệ tử và hoằng pháp độ sinh. Đó là cột mốc trong quá trình tu học và hành đạo, nên mỗi vị tự thân ý thức trách nhiệm trong vị trí này. Một trong những yếu tố quan trọng giúp người trụ trì làm tốt trọng trách đó là thực tập chánh niệm cao độ.
Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm, Hoà thượng phân tích rõ nhiều vấn đề được đề cập trong 13 chương 71 điều Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và những vấn đề liên quan đến sinh hoạt thường nhật của Tăng Ni trong 12 chương 57 điều của Nội quy Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN. Nhiều vấn đề thường gây tranh chấp liên quan đến đất đai, tài sản tự viện, việc di chuyển nơi tu tập, việc cầu thỉnh Y chỉ sư, v.v… được Hoà thượng giải thích rõ ràng giúp chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái biết cách giải quyết và hành xử đúng với đường lối tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trách nhiệm của người tu sĩ là phải tu tập cho tốt, phát huy khả năng, sự  tiến bộ, tâm hoan hỷ, tha thứ với tình thầy trò, đời sống tu tập gương mẫu, tài chánh phân minh... nương tựa vào ngôi Tam bảo để phục vụ nhân sinh, sống hoà hợp, giúp đỡ, ứng xử chan hòa, học hạnh trụ trì của các bậc Tôn túc, trau dồi tâm đức của bậc tu sĩ.
Hoà thượng đã chỉ cho đại chúng cũng như tự nhắc mình đã thờ ơ, thiếu sót, chưa tập trung viết nên một bản lược sử đức Tổ sư đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc. Ngài kêu gọi chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái, phải chăng đã đến lúc chúng ta nên ngồi lại với nhau, nghiêm túc thảo luận, thống nhất viết lại hai bản Tiểu sử của đức Tổ sử Minh Đăng Quang. Một bản là lược sử súc tích, song đầy đủ các sự kiện, mỹ từ, cú pháp thoả đáng để cung tuyên trong các buổi lễ Tưởng niệm đức Tổ sư tại các trụ xứ. Một bản tiểu sử khá chi tiết, nêu rõ những sự kiện trân quý, nổi bật, đặc biệt chạm được trái tim và tinh thần cầu học của độc giả, hoặc thính giả khi có nhân duyên thấy nghe.
Minh họa hình ảnh trong phim The Buddha.
Cỏ sanh tình thọ làm cây đực cái. Cây tuy đực cái nhưng chẳng giao dâm. Đến thú tư tưởng mạnh khó dằn mà giao cấu. Chất tinh ba là giống của cây, thú, người sanh bông, trái, hột, trẻ con. Người còn nhục dục theo thú. Trời biết là sái quấy khổ hại nên đã bỏ rồi. Phật là chơn nhơn nên trong sạch không không tự nhiên sau khi giác ngộ. Đã giác ngộ tởn sợ, được kinh nghiệm, đã học rồi, chán nản rồi mau lo tiến hóa, diệt khổ an vui là chót hết.
Trong võ trụ không gian và thời gian chỉ có ba pháp là trần, thức, căn. TRẦN là tứ đại, của cải, các pháp, chất nuôi sống; THỨC là sự sống biết, là chúng sanh; CĂN là thể tướng hình dạng của mỗi chúng sanh. Cho nên nói rằng: Trong võ trụ có một cái cây, trần vật chất là đất nước lửa gió phía dưới, căn là rễ ăn trong trần để nuôi thức, thức là thân cây, tưởng là nhánh cây, pháp là lá cây, trí như hoa, giác như vỏ trái, tánh như hột, chơn lý như thịt cơm. Cây ấy tức là đạo của chúng sanh vậy. Đạo ấy vốn từ nơi trần mà ra, quả ấy là quả giác, kêu là Phật.
Hòa thượng chia sẻ cùng Đại chúng khóa Bồi dưỡng trụ trì năm 2018 tại Pháp viện Minh Đăng Quang. Hoà thượng đã chỉ cho đại chúng cũng như tự nhắc mình đã thờ ơ, thiếu sót, chưa tập trung viết nên một bản lược sử đức Tổ sư đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc. Ngài kêu gọi chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái, phải chăng đã đến lúc chúng ta nên ngồi lại với nhau, nghiêm túc thảo luận, thống nhất viết lại hai bản Tiểu sử của đức Tổ sử Minh Đăng Quang. Một bản là lược sử súc tích, song đầy đủ các sự kiện, mỹ từ, cú pháp thoả đáng để cung tuyên trong các buổi lễ Tưởng niệm đức Tổ sư tại các trụ xứ. Một bản tiểu sử khá chi tiết, nêu rõ những sự kiện trân quý, nổi bật, đặc biệt chạm được trái tim và tinh thần cầu học của độc giả, hoặc thính giả khi có nhân duyên thấy nghe.
Tứ y pháp trung đạo: 1. Nhà sư khất thực: Phải lượm những vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận. 2. Nhà sư khất thực: Chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp, đọc giới bổn, được ăn tại chùa. 3. Nhà sư khất thực: Phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ, bằng lá một cửa thì được ở. 4. Nhà sư khất thực: Chỉ dùng cây, cỏ, vỏ, lá mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng”
Đi chậm khoan thai. Đứng ngay yên lặng. Ngồi thẳng vững vàng. Nằm nghiêng trang nghiêm. Nói dịu dàng lời. Làm hòa hưỡn chuyện. Ăn lặng lẽ bát. Mặc chỉnh tề y. Thức nhớ đạo lành. Ngủ quên điều ác. Sống nương Cực lạc. Chết nghĩ Niết-bàn. Thân không tội lỗi. Tâm chẳng kiêu sa. Trí đừng mê tối. Tánh chớ vọng tà. Đi đường đạo chánh. Đứng giữa bậc trung. Ngồi nơi giải thoát. Nằm chỗ thung dung. Nói lý diệu hòa. Làm sự Bát-nhã. Ăn dùng pháp lý. Mặc tự tánh hiền. Thức tánh Thinh Văn. Ngủ tìm Duyên Giác. Sống hạnh Bồ Tát. Chết gọi Như Lai. Thân giới trong sạch. Tâm định yên lặng. Trí tuệ sáng suốt. Tánh chơn tự nhiên.  
Đến với chương trình, Thượng tọa trình bày một cách chân tình về nhân duyên xuất gia học đạo, thời gian "cởi áo cà-sa khoác chiến bào",  tham gia vào đội ngũ phục vụ biên giới, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh, thiết lập hòa bình cho dân tộc. Đồng thời Thượng tọa cũng nói lên hạnh nguyện và quan điểm, lý tưởng sống của người xuất sĩ: "Những nhà tu hành chân chính là sống và làm việc vì hạnh phúc, vì an lạc không chỉ cho mình mà cho cả chư thiên và loài người". Đây là  một quãng đời và làm việc rất ý nghĩa, là tấm gương sáng để mọi người học, noi theo.
Phật giáo là tôn giáo có những nét đặc sắc so với các tôn giáo khác. Thuyết nhân duyên của Phật giáo thể hiện việc không công nhận quyền năng của Thượng đế và mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này có hợp có tan, có sinh diệt thay đổi. Giáo lý nhà Phật đề cập đến những vấn đề vô cùng thiết thực, vũ trụ hình thành và vận hành theo quy luật nhân quả, dẫn đến sự thay đổi theo thời gian năm tháng, và có sự sinh tử luân hồi. Hệ thống truyền thừa của Phật giáo có nhiều tông, phái, trong đó có Phật giáo nguyên thủy và Đại thừa. Với chí nguyện theo dấu Phật Tăng xưa “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, hệ phái Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam ra đời từ sự kết hợp dung hòa tinh hoa của hai tông phái này, do đức Tổ sư Minh Đăng quang khai sáng. Tông chỉ là tu Giới, Định, Tuệ. Tăng ni Hệ phái cần phải nổ lực tự thân tu học để phát triển nội lực và trí tuệ, đạt được Tri kiến và Giải thoát tri kiến, nhưng bên cạnh đó cũng phải hoằng pháp độ sanh, đem đạo vào đời và xiển dương tông phái. Đó chính là nội dung chính mà TT. Giác Duyên chia sẻ trong mùa An cư 2018 tại Tổ đình Minh Đăng Quang, Vĩnh Long.
Tôn giáo là tổ chức có niềm tin vào thần linh, vào đấng thiêng liêng. Niềm tin này đã ăn sâu vào tư tưởng của các tín đồ từ hơn mười ngàn năm trước. Tôn giáo bao gồm Tôn giáo nguyên thủy và Tôn giáo phát triển. Họ đều là những tôn giáo hữu thần, công nhận có đấng tối cao sáng tạo ra thế giới đó chính là Thượng đế, và Thượng đế có quyền năng thưởng phạt, quyết định số phận của một con người. Đứng dưới góc nhìn của tôn giáo thì Phật giáo lại đi ngược lại quan điểm này. Phật giáo là một tôn giáo có tính triết lý và là tôn giáo vô thần.Theo Phật giáo, con người và thế giới này có mặt là đều do duyên mà hợp thành. Giáo lý căn bản nhất của Đạo Phật là giáo lý duyên khởi, cái này sinh thì cái kia sinh, và cái này diệt thì cái kia diệt. Từ chổ sanh diệt đó mà Đức Phật dạy về vô thường, khổ, vô ngã, tất cả đều không có gì là bền chắc. Và Đạo Phật là tôn giáo nhân bản, lấy con người làm gốc. Ngày nay, các tôn giáo muốn phát triển được phải theo xu hướng của thời đại “thế tục hóa”. Tôn giáo phải gần gũi với con người, không nên xa rời khoa học và phải đem đạo vào đời. Một tôn giáo tốt phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức, hướng con người đến chân thiện mỹ.
Kinh Thâu-lũ-na (Kinh Tạp A-hàm, bài số 32) do Hòa thượng Giác Pháp thuyết giảng tại Đạo tràng An cư Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 09/07/20188 (nhằm 26/05/Mậu Tuất).
Kinh Thâu-lũ-na (Kinh Tạp A-hàm, bài số 32) do Hòa thượng Giác Pháp thuyết giảng tại Đạo tràng An cư Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 25/06/20188 (nhằm 12/05/Mậu Tuất).
Mở đầu pháp thoại, Hòa thượng nhấn mạnh mục đích, ý nghĩa của pháp An cư . Ngài chỉ rõ: An cư cũng chính là một trong các phương cách giúp Tăng đoàn hưng thịnh. Tiếp theo, theo tinh thần lời dạy của Đức Phật, Hòa thượng đã phân tích bảy pháp làm Tăng đoàn hưng thịnh. Cuối cùng, từ bảy pháp trên, Hòa thượng đã hướng dẫn đại chúng rút ra 3 bài học sau: -Các vị Tỳ kheo cần sống hòa hợp, thương yêu và bảo hộ lẫn nhau (Nên tập Sống chung tu học- lời dạy của Tổ Sư). - Các vị Tỳ kheo cần sống đúng theo giới luật; kính lễ, nương tựa và thọ học các bậc trưởng thượng. - Các vị Tỳ kheo sống đời phạm hạnh, tự chủ, không bị lôi cuốn theo dòng chảy cuộc đời.
Pháp thoại được giảng trong mùa An cư kiết hạ của Hệ phái Khất sĩ. Do vậy, ngay trong phần mở đầu, Hòa thượng đã đặt vấn đề: An cư là thời điểm tốt nhất để các vị xuất gia thúc liễm thân tâm, trau dồi phạm hạnh, củng cố và hòa hợp Tăng đoàn. Hòa thượng nhắc đến hình ảnh Tăng đoàn thời Tổ sư, phảng phất hình ảnh Tăng đoàn thời Đức Phật. Hòa thượng cũng nhấn mạnh lời dạy của Đức Phật: Tinh thần hòa hợp trong Tăng chúng là điều kiện để duy trì sự phồn thịnh của Tăng đoàn.
Đề tài: "Mười hạng người làm ăn và sử dụng tài sản" do Đại đức Giác Hoàng thuyết giảng trong khóa tu Ngày An lạc và Tuổi trẻ hướng Phật tại chùa Giác Ngộ vào ngày 22/07/2018 (nhằm 10/06/Mậu Tuất).  
Bài giảng tại Đạo tràng An cư Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 21/06/2018 (nhằm 08/05/Mậu Tuất).
Pháp thoại: "Chia sẻ kinh nghiệp tu tập" do HT. Giác Phùng (Trụ trì Tổ đình Tịnh xá Ngọc Tòng - Nha Trang) thuyết giảng tại Hạ trường Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 03/07/2018 (nhằm 20/05/Mậu Tuất)
Bài giảng tại Tịnh nghiệp Đạo tràng An cư Kiết hạ Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 22/06/2018 (nhằm 09/05/Mậu Tuất).
Pháp thoại do Đại đức Giác Hoàng, Phó tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng Học viện PGVN tại TP. HCM, giảng tại Học viện Phật giáo cơ sở II (xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, TP.HCM), ngày 26-11-2017.
Hòa thượng giới thiệu tầm quan trọng của việc học Chơn lý đối với người xuất gia theo Hệ phái Khất sĩ. Ngài chỉ rõ: học Chơn lý là để thấy rõ diễn tiến của các pháp; hiểu được trình độ tiến hóa của chúng sinh, từ vô tình đến hữu tình. Hòa thượng đã phân tích rõ các cấp độ tiến hóa của chúng sinh ở cõi người tương ứng với các tầng bậc : thọ, tưởng, hành, thức, giác. Từ đó, Hòa thượng chỉ ra cách vận dụng những ý pháp trên vào đời sống tu tập. Hòa thượng nhấn mạnh: tất cả các quyển trong Chơn lý của Tổ đều có pháp tu hết sức khoa học. Hành giả cố gắng nhận ra để học kỹ, tu kỹ rồi dẫn dắt cho Phật tử tu. Điều hết sức cảm động và trân quý là, trong suốt bài pháp, rất dễ nhận ra tâm tình khuyến học, khuyến tu của Hòa thượng đối với hàng xuất gia hậu học của Ngài!
Khóa tu thường kỳ "Một ngày An lạc" tại Học viện Phật giáo Việt Nam cơ sở II, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh vào ngày Chủ Nhật 17/6/2018 (nhằm 04/5/Mậu Tuất) do TT. Minh Thành chủ giảng với đề tài: Kinh Kim Cang (Phẩm Đại thừa Chánh tông)
Khóa tu thường kỳ "Một ngày An lạc" tại Học viện Phật giáo Việt Nam cơ sở II, xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh vào ngày Chủ nhật 15/07/2018 (nhằm 03/06/Mậu Tuất) do HT. Giác Toàn chủ giảng với đề tài: Kinh trú độ thọ (Kinh Trung A-hàm, phẩm Bảy pháp, bài số 2).
Bài giảng tại Tịnh nghiệp Đạo tràng An cư Kiết hạ Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long), ngày 17/6/2018 (nhằm 04/05/Mậu Tuất).
Trên tinh thần nối truyền hạnh Phật Tăng xưa và thực hiện thông bạch của Ban Chỉ đạo An cư kiết hạ GHPGVN TP.HCM, tối ngày 10/6/2017 (nhằm ngày 16/5 năm Đinh Dậu), chư Tôn đức Tăng Hệ phái Khất sĩ đã làm lễ Tác pháp An cư kiết hạ PL.2561 – DL.2017 tại Tịnh xá Trung Tâm (21 Nguyễn Trung Trực, Q.Bình Thạnh, TP.HCM).
Cổ đức nói: Người tìm đạo thì Người chơn Đạo chánh / Đạo tìm người thì Đạo lợi Người danh. Hòa thượng trích giảng Kinh Tạp A-hàm, tập 3 - bài Kinh số 848: "Bốn thiên đạo của chư thiên" tại giảng đường Minh Đăng Quang - Tịnh xá Trung Tâm, 21 Nguyễn Trung Trực, P.5, Q. Bình Thạnh, Tp.HCM
Qua hai bài kinh đại diện cho hai trường phái: Kinh Viên Giác của Bắc truyền và Kinh Bố Dụ của truyền thống Nam truyền, Thượng tọa đã so sánh sự tương đồng của hai trường phái để thấy được tầm quan trọng của sự tỉnh thức. “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác” (Kinh Viên Giác) và “Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo biết được: "Tham dục, tà tham là cấu uế của tâm", tham dục, tà tham cấu uế của tâm được diệt trừ, khi nào Tỷ-kheo biết được: "Phóng dật là cấu uế của tâm", phóng dật, cấu uế của tâm được diệt trừ” (Kinh Bố Dụ).
Hệ thống trong bộ Chơn Lý của Đức Tổ sư đó là “Giới – Định – Huệ”, vì: “Người Khất sĩ chỉ có ba pháp tu học vắn tắt là Giới, Định, Huệ. Bởi giữ giới y bát là giải thoát mọi điều trói buộc phiền não ô nhiễm rồi, nên hằng được thong thả rảnh rang ở trong cái thật, cái không xao động, chỉ còn có nhập định và tham thiền, tức là vừa tìm học trong trí não, vừa để tâm yên lặng đứng ngừng, gọi là tâm nghỉ ngơi và trí làm việc, khỏe làm, mệt nghỉ. Khi trí làm thì năng sanh huệ, lúc tâm nghỉ thì phát thần thông. (Chơn lý “Y bát chơn truyền”)
Hòa thượng Giác Toàn thuyết giảng Chơn Lý Số 2 "Ngũ uẩn" tại Pháp Viện Minh Đăng Quang - Q 2 vào ngày 08/7/2018 (nhằm ngày 25/5 Mậu Tuất).
Hòa thượng Giác Toàn chia sẻ giáo lý trong Lễ khai giảng lớp Tu học Chơn lý - "Chơn lý Võ trụ quan" tại Pháp Viện Minh Đăng Quang - Q2 , ngày 10/6/2018 (nhằm ngày 27/4 Mậu Tuất)
Năm pháp mà Phật tử xuất gia hay tại gia đều nên y cứ thực hành, tùy căn tùy lực của mình mà hành ít hay nhiều, cạn hay sâu. Trong đó vừa có phần tự lợi, vừa có phần lợi tha. Duyên khởi, nên tùy phần tùy lực mà lúc thì ứng dụng phần tự lợi nhiều, lúc thì ứng dụng phần lợi tha nhiều, hoặc vừa tự lợi vừa lợi tha xen kẻ. Đó là những phương thức giúp Chánh pháp trường tồn ở thế gian. Cũng là cách hộ trì Chánh pháp không để mất trong thời Mạt pháp.
Kinh Ratthapala thuộc Kinh Trung bộ số 82, nói về hoàn cảnh và nhân duyên xuất gia của vị Tỳ-kheo Ratthapala. Ngài vốn là con trai duy nhất của một gia đình thuộc dòng dõi Bà-la-môn giàu có. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, Ngài đã giác ngộ và xin cha mẹ được xuất gia nhưng cha mẹ không đồng ý. Khi cha mẹ không cho Ngài quyết tâm tuyệt thực, và cuối cùng được cha mẹ chấp thuận. Với chí xuất gia mãnh liệt, sau một thời gian nổ lực tinh tấn tu tập, Ratthapala đã chứng đắc A-la-hán. Và Ngài đã xin Đức Phật về gặp lại cha mẹ. Mặc dù cha mẹ đem vàng bạc chất đống đầy nhà, đem những người vợ xinh đẹp ra quyến rũ, dụ dỗ để Ratthapala hoàn tục. Nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa đối với tâm của một vị đã giải thoát, và Ngài đã bảo cha mẹ hãy đem tất cả số vàng ấy đổ xuống sông Hằng vì đó là đầu mối của mọi sự khổ đau. Qua bài kinh, HT. Giác Pháp đã dạy cho hàng Phật tử chúng ta một bài học quý báu từ gương hạnh của Ngài Ratthapala. Nên học hạnh buông bỏ bằng cách tu học và làm theo lời Phật dạy, tập buông bỏ để từng bước thoát khỏi sự cám dỗ của thế gian, thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, giải thoát khổ đau.
Một tấm lòng từ bi, bác ái, gương mẫu, sống đời sống phạm hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ; đó là những hạnh cần có của một vị Bồ tát mà Hòa thượng đã diễn giảng trong bài pháp thoại này. Ngài sách tấn cho chúng ta cần phải tinh chuyên tu tập, thuần hành hạnh nguyện sâu sắc, giúp đời đẹp đạo đem lại lợi ích cho nhân sanh. Chúng ta giữ được những hạnh này thì cuộc sống sẽ trở nên an lạc và yên vui hơn trong cuộc đời.
Nhận thức được sự vô thường của thế gian, Hòa thượng xuất gia cầu đạo, thúc liễm thân tâm, trau dồi đạo hạnh, quyết tâm tu tập đến ngày thành tựu đạo quả. Bằng những trải nghiệm tự thân, Hòa thượng khuyến tấn đại chúng gắng chí tu hành: ăn chay, niệm Phật, một lòng tin tưởng vào quả phước của sự tu tập. Khi trí tuệ được khai mở, sẽ tự  giúp mình, sau đó, cứu độ hương linh thoát khỏi sanh tử luân hồi.  
Sống ở trong trần, mà không say mê đắm nhiễm mùi trần. Sống ở cõi dục, mà không nhiễm dục. Đó là nội dung chính mà Hòa thượng pháp sư muốn gởi đến Phật tử trong buổi pháp thoại này. Hòa thượng đã lấy dẫn chứng hết sức thuyết phục về cuộc đời đức Phật. Từ địa vị một hoàng tử, Ngài đã từ bỏ tất cả danh lợi, tài sắc, quyết chí ra đi tìm con đường giải thoát cho mình, và dẫn dắt chúng sinh đi trên con đường giác ngộ, giải thoát.  
Trong bài pháp thoại này, Hòa thượng kể lại hành trình gian nan tìm ánh sáng Phật pháp. Do hữu duyên với ngôi Tam bảo, chuyên tâm tu tập, hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục mà Ngài vượt qua mọi gian nan, thử thách. Bên cạnh đó, Hòa thượng khuyên chúng ta nên tinh tấn tu tập ăn chay, niệm Phật, giữ giới, cúng dường, phóng sanh, vun trồng căn lành công đức chuyển hóa thân tâm tạo nhiều duyên lành cho đời này và đời sau.
Đêm cuối trước khi về lại Mỹ quốc (27/05/2008), HT.PS. Giác Nhiên giảng cho đại chúng nghe bài pháp Tứ diệu đế. Đây là bài pháp đầu tiên của Đức Phật sau khi chứng đắc đạo quả dưới cội cây Bồ-đề, giảng về bốn sự thật liên hệ đến thế gian và xuất thế gian. Đó chính là: Khổ; Nguồn gốc của Khổ; Sự đoạn diệt Khổ và Con đường đưa đến sự diệt Khổ. Vì không hiểu rõ bốn pháp cao quý này mà chúng sanh mãi chịu đau khổ, luân hồi trong ba nẻo sáu đường.
Nhân chuyến về thăm quê hương, Hòa thượng Pháp sư trợ duyên cho Phật tử đạo tràng tu Tịnh độ. Ngài giảng giải: niệm Phật là để định tâm. Tâm định thì năng sanh huệ. Có trí huệ, sẽ phá tan vỏ vô minh, diệt tiêu phiền não chướng. Bằng lòng từ bi, Ngài sách tấn Phật tử hãy luôn tinh tấn niệm Phật để đạt được đạo quả Niết-bàn, vô sinh bất diệt.      
Sám hối là ăn năn tội lỗi từ trước đến nay và ngăn ngừa những lỗi từ nay về sau. Đó là những lỗi từ thân, khẩu, ý gây ra. Qua bài giảng, hòa thượng đã chỉ rõ các lỗi con người có thể phạm phải , những lợi ích khi chính người ấy nhận biết và thành tâm sám hối lỗi lầm. Từ đó, họ có thể nhìn thấy rõ hơn bản chất của con người phàm phu mà phát tâm ngăn ngừa những hành động ác, phát triển những hành động lành để tiến đến hoàn thiện Phật tâm của chính mình.    
Để tạo thắng duyên cho quý Phật tử gần xa thể hiện tinh thần hiếu tâm, hiếu hạnh và hiếu đạo đối với hai đấng sanh thành dưỡng dục, vào sáng ngày 31 tháng 8 năm 2017 (nhằm 10/07/Đinh Dậu) đạo tràng Tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh) đã trọng thể tổ chức Đại lễ Dâng cúng Pháp y Casa - Vu lan Báo hiếu (PL.2561 - DL.2017), đến chư Tôn đức Tăng Ni để hồi hướng phước báu cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được đượm nhuần mưa pháp tăng phước tăng thọ; cha mẹ quá vãng cùng Cửu huyền Thất tổ nhiều đời kiếp được thừa tư công đức siêu sinh cõi Tịnh; đồng thời cầu nguyện cho âm siêu, dương thới, pháp giới chúng sanh được ân triêm lợi lạc.
Thường trực BTS GHPGVN TP.HCM, Đại Giới Đàn Trí Tịnh PL.2561 – DL.2018 diễn ra từ ngày 07 - 12 tháng 5 năm 2018 (nhằm 22 - 27/3/ Mậu Tuất), và chính thức khai mạc vào ngày 08/5/2018 (nhằm 23/3/ Mậu Tuất).
Bộ phim điện ảnh Phật giáo về cuộc đời và đạo nghiệp của Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh “VỀ PHÍA MẶT TRỜI” tái hiện bối cảnh của những năm 1930, xuyên suốt diễn biến đời sống của cậu bé Bình – thế danh của Hòa thượng Thích Trí Tịnh từ lúc 5 tuổi đến lớn với những câu chuyện có tình tiết hấp dẫn, đan xen nhiều giây phút lắng đọng, đặc biệt mang tính nhân văn sâu sắc. Bình mồ côi cha mẹ, phải sống với gia đình người anh. Cuộc sống nghèo khổ, nhiều căng thẳng, xung đột trong gia đình khiến Bình trầm tư trước tuổi. Không những thế với trái tim yêu thương muôn loài, Bình đã trải qua nhiều giây phút nghẹt thở khi cứu thoát nhiều con vật trước sự tàn ác của con người. Sau những khắc nghiệt của cuộc sống, khổ vui vô thường của cuộc đời, Bình khát khao tìm đến một con đường hạnh phúc thật sự. Cậu bắt đầu dành nhiều thời gian để tìm hiểu các đạo giáo một cách sâu sắc. Cuối cùng, nơi những thắc mắc vô tận của Bình được giải tỏa, chốn bình yên khiến Bình đặt trọn niềm tin, nương tựa mạnh mẽ đó là Phật Giáo. Ứng với giấc chiêm bao đặc biệt, Bình đã buông bỏ tất cả & thực hiện hành trình đầy mạnh mẽ tìm đến núi Cấm tầm sư học đạo, trở thành một tu sỹ chân chính với pháp danh Thiện Chánh & pháp hiệu sau này là Thích Trí Tịnh. Suốt một đời không ngừng học hỏi, trao dồi tri thức, Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh đã để lại những thành quả dịch thuật có giá trị cho cuộc đời, như các bộ kinh tạng lớn: Pháp Hoa, Phổ Môn, Lăng Nghiêm…
Bấm vào đây để xem tiếp Phim hoạt hình: Câu chuyện thời đức Phật tại thế (tập 2)
Tu là thực hành, uốn nắn, sửa đổi những điều sai trái, không tốt để trở nên tốt đẹp hơn. Tu sửa từ những hành động nhỏ, suy nghĩ nhỏ, câu nói nhỏ. Hòa thượng đã chỉ dẫn cho người nghe từng khía cạnh một từ đời sống tu hành cho đến cuộc sống tại gia. Qua đó, mỗi cá nhân có thể cải thiện được từng bước những sai lệch từ hành động đến suy nghĩ để trở thành con người thiện lành hơn, góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.  
102 bộ phim hoạt hình Nhất Hưu hòa thượng (bấm vào đây để xem trọn bộ)
Chư Tôn đức Tăng Ni Ban Từ thiện Xã Hội Hệ phái cùng quý Phật tử thăm và trao tặng quà đến bà con bị ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 12 tại tỉnh Khánh Hòa vào ngày 05/01/2018.
Chư Tôn đức Tăng Ni Ban Từ thiện Xã Hội Hệ phái cùng quý Phật tử thăm và trao tặng quà đến đồng bào 3 tỉnh Tây Bắc: Yên Bái - Sơn La - Điện Biên từ ngày 24-30/9/2017.
Chư Tôn đức Tăng Ni Ban Từ thiện Xã Hội Hệ phái cùng quý Phật tử thăm và trao tặng quà đến đồng bào 3 tỉnh Tây Bắc: Lào Cai - Lai Châu - Điện Biên từ ngày 15-23/4/2017.
Niệm Phật là tưởng nhớ đến công hạnh đức Phật mà nương theo tu học. Chia sẻ cùng đạo tràng niệm Phật, Đại đức giảng sư đưa ra một vài câu chuyện về đức tin này với mong muốn hội chúng có cái nhìn đúng đắn về pháp môn tu tập của mình.
Hạnh phúc là điều mà tất cả chúng ta mong cầu và tìm kiếm. Đôi khi hạnh phúc là những gì trước mắt mà chúng ta lại không nhận ra và nắm bắt. Đó là một trong những ý mà Đại đức giảng sư muốn chia sẻ với khóa sinh "Tuổi trẻ và Đạo Phật" tại Pháp viện Minh Đăng Quang.
Mười hạnh nguyện của Phổ Hiền bồ tát là: lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh. Từ những lời giảng mộc mạc, gần gũi, hòa thượng đã phân tích những công hạnh và pháp tu của các vị bồ tát một cách đầy đủ và dễ hiểu. Từ đó, người nghe có thể từng bước học tập và thực hành theo để phát triển thân tâm trên con đường học Phật của chính bản thân mình.
Chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử Ban Từ thiện Xã hội Hệ phái Khất sĩ trong và ngoài nước thăm và trao tặng 2.000 phần quà đến bà con bị thiên tai lũ lụt do cơn bão số 12 tại 2 tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên - Huế vào ngày 15-17/11/2017.
Chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử trong Ban Từ thiện Xã hội Hệ phái cùng các mạnh thường quân trong và ngoài nước đã đến thăm và tặng 3000 phần quà cho đồng bào bị lũ lụt do cơn bão số 12 gây ra tại 3 tỉnh: Phú Yên - Bình Định - Quảng Ngãi từ ngày 7-11/12/2017.
Tịnh xá Ngọc Hòa - Nhơn lý, Quy Nhơn, Bình Định, thuộc Giáo đoàn III - Hệ phái Khất sĩ, một ngôi chùa đẹp và ẩn chứa những điều huyền bí, những tâm huyết cho đời sau bên trong tượng Phật đôi lớn nhất Việt Nam.
Ni Trưởng Huỳnh Liên (1923-1987) là vị giáo phẩm Ni đã được Tổ sư ủy thác lãnh đạo, hướng dẫn giáo đoàn Ni. Ni Trưởng là bậc nữ lưu xuất chúng, có thiên phú về thơ văn và nổi bật với chí nguyện phụng sự nhân sinh rất mạnh mẽ, tích cực tham gia các phong trào đấu tranh đòi hòa bình, tự do, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trong giai đoạn 1963-1975 tại miền Nam Việt Nam.
Bốn loại lửa mang theo 4 ý nghĩa trong cuộc sống của nhân loại. Hiểu được tác dụng và tác hại của bốn loại lửa này, chúng ta sẽ thắp lên được ngọn lửa tâm linh cho chính mình, góp phần làm bừng sáng ngọn đèn chân lý trong giáo pháp Phật-đà.
Với đề tài "Cháy", Đại đức giảng sư muốn truyền tải đến tu sinh khóa tu Tuổi trẻ và Đạo Phật tại Pháp viện Minh Đăng Quang về thái độ sống của giới trẻ ngày nay.
Đứng trước nỗi khổ của đồng bào do thiên tai bão lũ số 10 càn quét, Ban Từ thiện Xã hội Tịnh xá Trung Tâm cùng với chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái và chư Tôn đức Tăng Ni hải ngoại đã phát động tịnh tài tịnh vật đi cứu trợ cho các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Ninh Bình, Hòa Bình) từ ngày 9-11/11/2017.
Hòa thượng đã triển khai phần nào quá trình truyền đạo vào Việt Nam của các nền tảng Nho - Lão và Phật giáo. Qua những tích chuyện về chư Tổ thời xưa, Hòa thượng chia sẻ cùng đại chúng về sự tiếp nối, truyền thừa Phật pháp. Từ đó cho thấy đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã vận dụng những bài học này, kết hợp các truyền thống, đưa ra một con đường mới cho Phật giáo VN thời bấy giờ. Đó là Đạo Phật Khất Sĩ VN - Nối truyền Thích-ca Chánh pháp.
"Tất cả vạn vật đều vô thường, vì không có cái gì bền vững mãi mãi”. Sau 80 năm thị hiện, đức Như Lai đã an nhiên nhập Niết-bàn, để lại cho hàng đệ tử niềm kính tiếc khôn nguôi. Tuy nhiên lời Phật dạy: “Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác” mãi trường tồn.
Để dẫn dụ chúng sanh từ bờ mê đến bến giác, Bồ Tát Quan Thế Âm khởi tâm từ bi cứu khổ chúng sanh. Học tập được hạnh của Ngài, không gì khác hơn là hãy sống quên mình, tự biết sám hối trao dồi tự tánh, yêu thương từ bi bác ái, chuyên cần tinh tấn tu tập gieo nhiều thiện duyên với Phật pháp. "Tâm phải như đất, tâm phải như nước". Đó là lời trao truyền của Đại đức đến chúng ta học và hành theo công hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm.
Ý Nghĩa Đức Phật Chuyển Pháp Luân do Hòa thượng Minh Bửu thuyết giảng tại Pháp Viện Minh Đăng Quang, Quận 2 vào ngày 24-6-2016. Nội dung chính: "Không có một hành động một lời nói nào mà không có kết quả của nó". Đây là thông điệp của Đức Phật được Hòa thượng trùng tuyên lại trong bài pháp thoại này. Hòa thượng nhấn mạnh tam độc (tham, sân, si) là nguồn gốc của tội lỗi, do vô minh chúng ta không rõ biết thực tánh của chính mình, là tạp nhân đưa chúng ta trong sanh tử luân hồi. Vì vậy, để thấu hiểu sự vô minh, thế nào là khổ Đức Phật đưa ra bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế, bốn chân lý màu nhiệm giúp chúng ta đi từ bờ mê đến sự giải thoát. Từ đó hành trì Bát Chánh Đạo con đường duy nhất để đạt được giác ngộ. Tu tập Tứ Diệu Đế, thực hành Bát Chánh Đạo, đó là ý nghĩa Đức Phật ra đời vận hành bánh xe pháp.
Pháp thoại: Năm pháp thành tựu của người cư sĩ do Đại đức thuyết giảng tại TX.Trung Tâm, Q. Bình Thạnh vào ngày 20-10-2017. Nội dung chính: Tu tập là quá trình lâu dài mà hàng cư sĩ cần phải tinh tấn rèn luyện, chuyên cần. Để trở thành một vị cư sĩ thành tựu trên con đường tu tập chỉ có con đường duy nhất là thực hành năm pháp. Dựa vào kinh Tương Ưng, Đại đức trình bày năm pháp thành tựu đó là: tín thành tựu, văn thành tựu, giới thành tựu, thí thành tựu và trí huệ thành tựu. Quán chiếu sâu sắc với niềm tin chân chánh đến ngôi Tam bảo một cách kiên cố, tinh tấn giữ gìn giới luật, tự thân nỗ lực không giải đãi, vận dụng giáo pháp với văn - tư - tu một cách tinh tế. Đây là năm pháp hành trì vững chắc, liên kết với nhau, giúp cho chúng ta vững bước trên con đường đạo mà Đại đức đã nhắn gửi cho hàng cư sĩ trong bài pháp thoại này.
Trong khoảng thời gian ngắn, Thượng tọa cũng muốn chia sẻ cùng Phật tử một số chi tiết về sự thành đạo của đức Phật. Suốt sáu năm tầm đạo, rồi 49 ngày đêm thiền định dưới cội bồ đề, cuối cùng sa-môn Gotama cũng chứng đạo Chánh đẳng Chánh giác, tìm ra con đường giải thoát rốt ráo cho nhân loại.
Nguyên thế danh Sư là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh lúc 10 giờ đêm ngày 26 tháng Chín năm Quý Hợi (tức 4 tháng 11 năm 1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình (nay thuộc huyện Tam Bình) tỉnh Vĩnh Long; là con út trong một gia đình có năm người con. Song thân của Sư là ông Nguyễn Tồn Hiếu và bà Phạm Thị Nhàn. Mười tháng sau khi sinh ra Sư, ngày 25 tháng Bảy năm Giáp Tý (1924), mẹ lâm bệnh nặng và qua đời, hưởng dương 32 tuổi. Từ đó, Sư được phụ thân và mẹ kế Hà Thị Song nuôi dưỡng cho đến lúc trưởng thành. Có tiếng thông minh, lại chăm chỉ, việc học hành của Sư mỗi năm mỗi tiến phát. Ngoài giờ học tập ở trường, giúp việc nhà, Sư còn tìm tòi học hỏi về Tam giáo. Năm 15 tuổi, Sư xin phép cha qua Nam Vang để tầm sư học đạo. Tại đây, Sư thọ giáo với một tu sĩ người Khmer lai Việt để nghiên cứu kinh tạng và đường lối y bát chơn truyền của Phật Tăng xưa Khoảng 3 năm sau, cuối năm 1941, Sư về lại Sài Gòn, vâng lời cha lập gia đình năm 1942. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, thì vợ (tên Kim Huê, người Chợ Lớn, không rõ họ) và con nhỏ của Sư đều lâm bệnh rồi lần lượt qua đời. Cám cảnh vô thường, Sư quyết chí đi tu. Đầu tiên Sư đến Hà Tiên định lần qua Phú Quốc, rồi sau đó sẽ đi nước ngoài học đạo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trễ tàu, Sư ra đầu gành bãi biển Mũi Nai (Hà Tiên) ngồi tham thiền 7 ngày đêm. Trước cảnh trời nước bao la biến đổi khôn lường, cộng với nỗi đau riêng (mẹ và vợ con đều mất sớm)...vào một buổi chiều, Sư ngộ được lý vô thường, vô ngã, khổ vui của cuộc đời,...và ngộ được lý pháp "thuyền Bát Nhã ngược dòng đời cứu độ chúng sinh". Sau khi ngộ đạo, Sư lên vùng Thất Sơn (An Giang) để tiếp tục tu tập. Ít lâu sau, chiến tranh lan tới vùng núi rừng Thất Sơn, phá tan cảnh yên tĩnh thường có. Trong bối cảnh ấy, Sư gặp được một nam tín đồ và theo vị này về trú ở Linh Bửu Tự, thuộc làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Nơi đây, suốt ba năm (1944 - 1947), thường thì buổi sáng Sư đi khất thực, đến trưa thì thọ trai, buổi chiều giáo hóa, buổi tối tham thiền nhập định, nêu gương về đời sống phạm hạnh thanh tịnh, y theo truyền thống của Phật Tăng thời chính pháp. Đầu năm 1947, Sư rời chùa để đi giáo hóa khắp Nam Bộ, và các vùng miền khác như Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa, Vũng Tàu, v.v... Sau 8 năm tiếp độ tăng chúng, vào ngày 1 tháng Hai năm Giáp Ngọ (1954), Sư rời Tịnh xá Ngọc Quang đi với một vị sư già và một chú điệu qua Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long), rồi qua tiếp Cần Thơ. Nhưng khi đến Cái Vồn (Bình Minh, Vĩnh Long) thì Sư bị một số người bắt đi thất tung cho đến nay.
Này bầu trời rộng lớn ơi, có nghe chăng tiếng em gọi. Mẹ giờ này ở chốn nao, con đang mong nhớ về mẹ. Mẹ ở phương trời xa xôi, hay sao sáng trên bầu trời. Mẹ dịu hiền về với con nhé, con nhớ mẹ.
Nhân mùa Khánh đản, Phật tử khắp nơi đều trở về đạo tràng tu học của mình để chào đón ngày vui trọng đại và cũng để được nghe chư Tôn đức ôn lại cuộc đời đức Phật. Sự thị hiện của đức Thế Tôn được Hòa thượng giảng giải thật gần gũi với chúng ta trong đời sống hàng ngày. Nhưng chúng ta có "tức tâm tức Phật" như chư Tổ được chăng?
Trong cuộc sống do tham tiền tài, danh lợi, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ; do sân hận, não hại, tật đố, xan tham; do si mê không sáng suốt, không thấy biết, mê lầm... đã lôi kéo, dẫn dắt, quấy nhiễu, ngăn cản làm chướng ngại chúng ta trên con đường tu tập; là nguyên nhân chính làm chúng ta phiền não. Để giải thoát đau khổ, Hòa thượng nhắc nhở chúng ta nên chú ý 3 điều tâm niệm bất thiện tham, sân, si này. Cho dù tu tập hành trì bất kỳ pháp môn nào mà không nhất tâm đoạn trừ các chướng ngại phiền não, không ngăn chặn, diệt trừ thì chính chúng ta làm chúng ta khổ không ai khác hơn ngoài cuộc đời này.
Chư Tôn đức Tăng Ni, Phật tử Hệ phái Khất sĩ thăm và trao tặng quà bão lũ đến 4 tỉnh: Quảng Trị - Quảng Bình - Hà Tĩnh - Nghệ An từ 28/10 đến 02/11/2017 (nhằm 9-14/9/Đinh Dậu)
Trẻ em là nền tảng của xã hội. Nếu khéo được dạy dỗ, khéo huấn luyện bồi dưỡng, tương lai khi trưởng thành sẽ là người có ích cho xã hội, cho quê hương đất nước và cho đạo pháp. Giáo dục trẻ em cũng giống như trồng và chăm sóc một cái cây non, nếu khéo biết ươm mầm, chăm sóc với một môi trường thích hợp sẽ phát triển vững vàng, tươi tốt. Khóa tu mùa hè lần này có hơn ba ngàn em từ mọi miền đất nước về chùa Hoằng pháp tu học. Nhờ vào nhân duyên lành đó, TT. Giác Duyên thuyết giảng đề tài “ Hạt giống tâm hồn”, nhằm giúp cho các em có định hướng và hiểu rõ được tầm quan trọng của việc học tập kiến thức, trao dồi kỹ năng sống và lợi ích của việc thường xuyên cần phải tu tâm dồi trí. Nhắc nhở các em phải biết nuôi dưỡng và phát triển những hạt giống tốt trên mảnh đất tâm của mình, phải biết nương tựa vào gia đình, nhà trường và nương tựa vào giáo pháp của Đức Phật để tu sửa, tiến hóa đời sống tâm linh của chính bản thân mình.
Ca sĩ Lâm Ánh Ngọc sáng tác và trình bày ca khúc "Mãi trong tim con" thành kính cúng dường đức Tổ sư Minh Đăng Quang - Tưởng niệm 60 năm Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng.
Mỗi năm cứ đến ngày mùng 8 tháng Tư, Phật tử khắp nơi đều hân hoan chào mừng ngày Đản sanh, ngày Thái tử Tất-đạt-đa chào đời. Đây cũng là một trong 3 sự kiện trọng đại trong cuộc đời Đức Phật, mà Liên Hợp Quốc hướng đến - ngày Tam hợp - Vesak (Đản sanh, Thành đạo, Niết-bàn).
Hàng năm, cứ đến ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, Phật tử khắp nơi lại thành tâm làm lễ kỷ niệm ngày xuất gia của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Để hàng Phật tử hiểu ý nghĩa ngày trọng đại này, Hòa thượng đã tóm lược cuộc đời đức Phật khi còn là thái tử. Qua đó, Thượng tọa giảng giải chi tiết về quyết định xuất gia của Ngài.
Hòa thượng trùng tuyên lại ý pháp trong Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang "Khi còn lăn lóc trong 3 đường khổ thì có hạt giống nào hoàn toàn trong sạch". Do tham đắm cuộc đời, do lục trần bám víu, tâm duyên theo cảnh tình, dính mắc sanh tâm ác, chấp trước, bảo thủ từ chổ đó tạo nghiệp ác. Muốn xóa bỏ tội lỗi chúng ta phải tự giác sám hối để hiểu rõ niềm tin nơi Tam bảo, tin nơi nhân lý công quả phước tội. Sám là tự hối tội lỗi của mình mà muốn sám hối. Hối là răn dạy biết điều tội phước, ăn năn hối hận. Người mạnh dạn nhận ra lỗi lầm, tự nhận trách nhiệm tội mình gây ra, tự biết sám hối, ý thức được việc tu tập thì người đó đáng được giải thoát.
Sáu tháng sau khi thái hậu Kiều Đàm Di xuất gia và thành lập Ni đoàn, công chúa Da Du Đà La cũng xin được xuất gia, trở thành một vị Tỳ-kheo-ni. Trong những năm đầu, Ni sư tu học tại một Ni viện ở vùng ngoại ô phía Bắc thành Ca Tì La Vệ do Ni trưởng Kiều Đàm Di tạo lập. Dưới sự chăm sóc của Ni trưởng, Ni sư Da Du Đà La đã tu học rất tinh tấn, chẳng bao lâu thì đắc quả A-la-hán, và trở thành một trong những Ni sư xuất sắc, có tài lãnh đạo trong Ni đoàn.
Ngài là đấng cha lành cứu độ nhân loài Đức từ bi Ngài gieo ánh sáng đạo vàng Đời dương thế si mê ham giận lầm lỗi Con cúi xin ơn Ngài cứu độ chúng sanh Xem thêm tại: http://loicakhuc.com/loi-bai-hat-anh-dao-vang-thuy-duong/XJa.html Ngài là đấng cha lành cứu độ nhân loài Đức từ bi Ngài gieo ánh sáng đạo vàng Đời dương thế si mê ham giận lầm lỗi Con cúi xin ơn Ngài cứu độ chúng sanh Xem thêm tại: http://loicakhuc.com/loi-bai-hat-anh-dao-vang-thuy-duong/XJa.html Ngài là đấng cha lành cứu độ nhân loài Đức từ bi Ngài gieo ánh sáng đạo vàng Đời dương thế si mê ham giận lầm lỗi Con cúi xin ơn Ngài cứu độ chúng sanh. Xem thêm tại: http://loicakhuc.com/loi-bai-hat-anh-dao-vang-thuy-duong/XJa.html Ngài là đấng cha lành cứu độ nhân loài Đức từ bi Ngài gieo ánh sáng đạo vàng Đời dương thế si mê tham giận lầm lỗi Con cúi xin ơn Ngài cứu độ chúng sanh...
Nữ Tôn giả Kiều Đàm Di sinh trưởng tại Devadaha, nước Câu Ly (KoLy), một nước nhỏ đối diện với Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), con của vua Thiện Giác (Suppa Buddha), em gái của hoàng hậu Ma Da (Mahà Mayà), cả hai chị em đều là vợ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Sauk hi hạ sanh thái tử Tất Đạt Đa được bảy ngày, hoàng hậu Ma Da từ trần, Kiều Đàm Di trở thành di mẫu, trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng thái tử khôn lớn.
Ngày xưa thuở Phật còn tại thế, đa phần các đệ tử xuất gia của Ngài đều chứng A La Hán, như 1.250 vị tỳ kheo mà kinh thường nhắc đến. Trong số đó bậc ưu tú về mặt đạo hạnh, sở trường và sở chứng, có mười vị được gọi là mười đại đệ tử, gọi chung là Thánh Chúng. Lịch sử Phật giáo liệt kê như sau: 1. Tôn giả Ðại Ca Diếp, Ðầu đà đệ nhất / 2. Tôn giả Xá Lợi Phất, Trí tuệ đệ nhất / 3. Tôn giả Mục Kiền Liên, Thần thông đệ nhất / 4. Tôn giả Ca Chiên Diên, Luận nghị đệ nhất / 5. Tôn giả A Nan Ðà, Ða văn đệ nhất / 6. Tôn giả A Na Luật, Thiên nhãn đệ nhất / 7. Tôn giả La Hầu La, Mật hạnh đệ nhất / 8. Tôn giả Tu Bồ Ðề, Giải không đệ nhất / 9. Tôn giả Phú Lâu Na, Thuyết pháp đệ nhất / 10. Tôn giả Ưu Ba Ly , Trì giới đệ nhất.
Trong thời gian 45 năm Phật giáo hóa, Ngài A Nan làm thị giả, Đức Phật luôn luôn có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trợ lý. Hai Tôn giả nhiều lần thay Phật đi truyền giáo đó đây. Hai vị là bạn tâm giao, lúc đầu theo phái San Xa Dạ sau ngộ lý duyên sinh trở về với Đức Phật. Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất đứng đầu hàng Thánh chúng nhưng nghị lực dứt kiết sử không nhanh bằng Ngài Mục Kiền Liên. Với các lậu hoặc trong thời gian 7 ngày, Mục Kiền Liên đã dứt sạch và có thần thông số một, đứng hàng thứ hai trong Thánh chúng.  
Ở Nam Ấn Độ tại nước Ma Kiệt Đà, cách thành Vương Xá khoảng hai dặm, có một thôn trang tên là Ca La Tý, nơi đây có non xanh nước biếc, cảnh trí u tịch, Ngài đã ra đời trong bối cảnh địa dư này. Xá Lợi Phất thuộc dòng dõi Bà La Môn, thân phụ là Ưu Ba Đề Xá hay Ưu Ba Thất Sa (Upatisya), một luận sư nổi danh trong hàng Bà La Môn.  
Con lên chùa dâng hoa / Con cúng dường chư Phật Lòng thành con tưởng nhớ / Đến bao ngày đã qua.  
Khói hương xông thấu mấy tầng xanh Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành Trên khói hương này xin Phật ngự Chứng minh đệ tử tấc lòng thành.
Cuộc sống làm chúng ta nặng nề và phiền não không có bình an và hạnh phúc do chạy theo tiền tài, danh lợi, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ. Để tìm cầu con đường bình an hạnh phúc không gì khác hơn là tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Dựa vào bài kinh Điềm lành, Đại đức Giác Phổ dẫn giải cho chúng ta con đường hạnh phúc đó là cố gắng tu tập, tránh xa kẻ xấu, gần người hiền trí, trú xứ nơi môi trường tu tập tốt,… Những ai làm việc như thế Đức Phật nói đó là người có điềm lành.
Ni sư đề cao hạnh khất thực du phương: “Tổ sư đã hướng dẫn đệ tử dùng đạo hạnh thanh thoát để du phương khắp nơi cùng xứ, sống đời rày đây mai đó… Tổ sư muốn duy trì truyền thống này nhằm mục đích đưa đến tự lợi, lợi tha để phù hợp với hoàn cảnh xã hội.
Với tham luận “ĐỨC TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG: TỪ SỰ GIÁC NGỘ TỰ THÂN ĐẾN XÂY DỰNG HỘI CHÚNG GIÁC NGỘ”, Giáo đoàn VI chúng con xin được ôn lại đôi nét hành trạng của đức Tổ sư để phần nào ôn nhắc lại tâm gương dấn thân hành đạo vì sanh chúng của Ngài.
Thượng tọa cho rằng cõi Phật khi đã nắm chắc về mặt nhận thức thì có thể triển khai, biểu hiện trên nhiều khía cạnh như văn chương, thi ca, họa vẽ, điêu khắc… để thấy rằng cõi Phật không chỉ là lý tưởng mà một hành giả chân thành hướng đến, không chỉ là cảnh giới siêu nhiên trác tuyệt mà còn là cảnh giới đầy sắc màu hiện thực và sinh động vô cùng.
Trên cương vị của một người nhiều năm nghiên tầm Luật tạng, Hòa thượng nhắc nhở chư hành giả An cư những giới nào nên tránh để bảo vệ giới thể cho hành giả. Chúng ta cần hiểu được mục đích mà Phật chế giới luật đều không ngoài 3 phương diện: những gì trở ngăn trên quả chứng của một hành giả; những gì mất sự đoàn kết, hòa hợp của Tăng đoàn; tránh sự chê bai của người thế gian. Cho nên, người tu cần nên hiểu Luật và không nên chấp chặt luật, mà phải linh động trong việc ứng dụng giới luật, vì đức Phật cho phép: “những điều nào ta chế ra địa phương thấy không cần thiết thì có thể bỏ, nhưng gì ta chưa chế ra mà địa phương thấy cần thiết thì nên thi hành”.
Đại đức trình bày một số vấn đề liên quan trong việc tham gia khoá tu Bồi dưỡng đạo hạnh đối với hàng Sa-di, Sa-di-ni; khoá Bồi dưỡng trụ trì đối với các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni chuẩn bị nhận lãnh trách nhiệm trụ trì; giới đàn tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh – Phân đàn Hệ phái Khất sĩ. Đại đức cũng cho biết, tối qua (20/04 âl), Ban Tu thư của Hệ phái có buổi hợp đầu tiên và lên kế hoạch khởi động với 3 công việc chuẩn bị cho Đại lễ Tưởng niệm 65 năm đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng năm 2019. Đó là soạn thảo lại 2 bản tiểu sử và lược sử cuộc đời và công hạnh của đức Tổ sư, biên tập Tuyển tập Tư tưởng Đường lối của đức Tổ sư và Biên niên sử Hệ phái Khất sĩ. Tiếp theo, Đại đức giới thiệu ra mắt trang web http://phapam.daophatkhatsi.vn/ và sau cùng là công bố quỹ Pháp học Khất sĩ hiện có.
Hòa thượng nhấn mạnh mục tiêu của thực hành Tứ y pháp mà đức Phật và Tổ sư khi truyền dạy là để không bị dính mắc, cột trói, ràng buộc trong 4 vấn đề ăn, mặc, ở, bịnh của người xuất gia Khất sĩ. Do vậy, tùy theo thời duyên cảnh ngộ mà chư Tăng Ni Khất sĩ nên hiểu và ứng dụng Tứ y pháp vượt ra ngoài ngôn tự mà cần phải nắm rõ tôn chỉ, mục đích nào khi đức Phật và Tổ sư truyền dạy Tứ y pháp. Hòa thượng khuyến nhủ chư vị Tỳ kheo hiện nay nên tránh tự mình chế biến thức ăn để thỏa mãn khẩu vị, chọn may y áo để chưng diện, xây dựng chỗ ở cao rộng, tốn kém để khoe khoang; không đau bệnh mà tìm thuốc bổ dưỡng để sử dụng.
Trụ trì - Sứ mạng tiếp bước chân, Khất sĩ tuỳ duyên hoằng pháp. Đây là đề tài giống như tất cả những người con Phật ai cũng có thể hướng đến và chính kinh nghiệm này sẽ giúp cho bản thân mình được tiến hoá hơn trên con đường tu học và đem lợi lạc lại cho chúng sanh. Sứ mạng tiếp bước hạnh nguyện của người Khất sĩ được NS.TS. Hằng Liên trình bày lại lời chỉ dạy của các Ngài qua 3 phần: Sứ mạng của trụ trì, tiếp bước hạnh nguyện bước chân khuất sĩ, chia sẻ các tuỳ duyên hoằng pháp. Điều quan trọng nhất mà chư Tôn đức thường dạy cho các bậc Trụ trì đó là phải làm sao thành tựu được hạnh nguyện của mình là “Trụ  pháp vương gia, trì Như Lai tạng” tức là phải làm sao thành tựu được pháp học của mình và làm sao gìn giữ được ngôi nhà chánh pháp với một sự kế thừa cái hạnh nguyện này ...
Hoà thượng Giác Hà đóng góp kinh nghiệm, trao đổi vai trò tâm đức của người trụ trì với trách nhiệm của người tu sĩ là phải tu tập cho tốt, phát huy khả năng, sự  tiến bộ, tâm hoan hỷ, tha thứ với tình thầy trò, đời sống tu tập gương mẫu, tài chánh phân minh... Nương tựa vào ngôi Tam bảo để phục vụ nhân sinh, sống hoà hợp, giúp đỡ, ứng xử chan hòa, học hạnh trụ trì của các bậc Tôn túc, trau dồi tâm đức của bậc tu sĩ.  
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở tại đây, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo. "Chư Hiền Tỷ-kheo". --"Thưa Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:
Ông Lê Hoàng Vân - Phó ban Tôn giáo TP. HCM triển khai những phương diện cần lưu ý trong bộ Luật Tín ngưỡng tôn giáo và tình hình Phật giáo TP. Hồ Chí Minh. Song song với việc trình bày một số điều cần hiểu rõ trong bộ luật, giúp chư Tăng Ni Hệ phái hiểu đúng và hành đúng đường lối của Chính phủ và Giáo hội, ông vô cùng hoan hỷ tán thán sự tu tập và tinh thần phụng sự chúng sinh của chư Tăng Ni Hệ phái. Ông nêu rõ nhiều thành tựu nổi bật của Hệ phái trong các năm qua.
Hòa thượng nhấn mạnh 3 vấn đề chính mà người trụ trì phải có, đó là nhân cách đạo đức, năng lực kiến thức và tâm đức bao dung. - Nhân cách đạo đức: Làm trụ trì mà không có nhân cách đạo đức làm sao có thể nhiếp phục chúng xuất gia, tại gia cùng với việc đối nội và đối ngoại… - Thời đại xã hội phát triển văn minh, công nghệ, người trụ trì cần phải có kiến thức nhất định về nội điển và ngoại điển “Nhật nhật tân, hựu nhật tân” (ngày ngày đều luôn đổi, và lại tiếp tục đổi mới nữa). Việc này đòi hỏi, ngoài nhân cách đạo đức, chúng ta cần có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn để trao dồi sở học sở hành. Ngoài ra, vị Tăng sĩ trẻ có năng lực cần phải tham gia các hoạt động ở Giáo hội và xã hội như từ thiện, văn hóa v.v… - Tâm đức bao dung: Người trụ trì không vì tư kỷ mà phải có tâm đức bao dung, tiếp nhận đồ chúng giáo dưỡng nên người; cho đi học các trường Phật học trong và ngoài nước để mở mang trí tuệ, tiếp nối trọng trách sứ mạng Tăng-già, xương minh Phật giáo, xứng với câu “Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng”, đóng góp cho ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong đó có Hệ phái Khất sĩ, đền ơn tổ thầy.
- NT. Hiệp Liên qua bài viết Giới - Định - Huệ của đức Tổ sư Minh Đăng Quang với lời dạy của bậc Chánh giác. - NT. Yến Liên với đề tài Giáo pháp của đức Phật và sự nối truyền của Tổ sư Minh Đăng Quang. - SC.TS. Thảo Liên chia sẻ chủ đề Tu tập Tâm theo Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang.
Hòa thượng Chủ tịch đề ra 5 trách nhiệm đối với mỗi người Tăng sĩ khi đảm trách cương vị đứng đầu một ngôi tự viện – tịnh xá, bao gồm: Trách nhiệm đối với tự thân, trách nhiệm với cơ sở, trách nhiệm với Giáo hội, trách nhiệm đối với Đạo pháp, và trách nhiệm đối với xã hội.
Hòa thượng nhắc nhở dù chúng ta hội nhập, tiếp thu những luồng tư tưởng bên ngoài, nhưng vẫn giữ nguyên bản chất, biết dùng trí tuệ để sàn lọc những cái phù hợp với bổn nguyện là hoằng truyền chánh pháp, luôn luôn lấy Giới luật làm đầu, vì Kỷ cương ở đây không gì ngoài giới luật. Ngày nay có một số ít đang có vấn đề đi ngược lại qui định chung, làm phá vỡ bản thể nếp sống Tăng đoàn trên tinh thần lục hòa. Hôm nay Hệ phái Khất sĩ tổ chức khóa Bồi dưỡng trụ trì, huynh đệ cùng ngồi lại bên nhau trên tinh thần thánh thiện của Tăng đoàn hòa hợp, đây là nét đẹp Văn hóa Phật giáo.
HT. Giác Trí - Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự phó GĐ III, đã chia sẻ cùng đại chúng: “Một vài kinh nghiệm trong trách vụ trụ trì và chứng minh Đạo Phật Khất Sĩ nối truyền 5 công hạnh của đức Phật”. Hoà thượng đã nhắc các Tăng Ni, đặc biệt đối với những vị tân trụ trì rằng hầu hết chư Tăng Ni đều sẽ đến giai đoạn nhận trọng trách trụ trì, quản lý tự viện, dạy dỗ đệ tử và hoằng pháp độ sinh. Đó là cột mốc trong quá trình tu học và hành đạo, nên mỗi vị tự thân ý thức trách nhiệm trong vị trí này. Một trong những yếu tố quan trọng giúp người trụ trì làm tốt trọng trách đó là thực tập chánh niệm cao độ.
Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm, Hoà thượng phân tích rõ nhiều vấn đề được đề cập trong 13 chương 71 điều Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và những vấn đề liên quan đến sinh hoạt thường nhật của Tăng Ni trong 12 chương 57 điều của Nội quy Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN. Nhiều vấn đề thường gây tranh chấp liên quan đến đất đai, tài sản tự viện, việc di chuyển nơi tu tập, việc cầu thỉnh Y chỉ sư, v.v… được Hoà thượng giải thích rõ ràng giúp chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái biết cách giải quyết và hành xử đúng với đường lối tổ chức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Những yếu tố trên đã tạo nên Giáo hội Tăng-già Khất sĩ vững mạnh, một môi trường tu học lý tưởng để trau dồi phẩm chất, giá trị của một vị Khất sĩ, một bậc Sa-môn phạm hạnh. Thời gian Tổ sư lập đạo và hành đạo chỉ vỏn vẹn gần 10 năm nhưng giá trị, lợi ích, hương vị giải thoát mà Đạo Phật Khất Sĩ dâng tặng cho đời vô cùng to lớn. Chúng ta là đệ tử, người con trong giáo pháp Khất sĩ cần phải có bổn phận gìn giữ, vun bồi và có trách nhiệm trao truyền cho thế hệ đệ tử tiếp nối. Mỗi vị Tôn đức Giáo phẩm, mỗi vị trụ trì cần nên gìn giữ truyền thống “Y bát – Giới luật” của Tổ Thầy, cần hiểu rằng: Giáo lý y bát chơn truyền nghĩa rằng: “Y là Pháp, Bát là Đạo, tức là đạo pháp đường chơn truyền dạy, có y bát mới có chơn như” (CL. “Y bát chơn truyền”). “Giới luật thanh tịnh tu tâm là miếng đất Tịnh độ Cực lạc. Kẻ mà nhờ giác ngộ nơi pháp nên được xuất gia nhập đạo, tức là được hào quang tiếp dẫn đưa vào Giáo hội Tăng-già bất thối, là nhà của Phật” (CL. “Tu và nghiệp”).
Tiến sĩ Bùi Hữu Dược - Vụ trưởng Vụ Phật giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ đã có buổi chia sẻ về chủ trương, chính sách Pháp luật Nhà nước và Bộ luật Tín ngưỡng Tôn giáo do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành và áp dụng từ đầu năm 2018 đến nay.
Tiến sĩ Bùi Hữu Dược - Vụ trưởng Vụ Phật giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ đã có buổi chia sẻ về chủ trương, chính sách Pháp luật Nhà nước và Bộ luật Tín ngưỡng Tôn giáo do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành và áp dụng từ đầu năm 2018 đến nay.
Hoà thượng đã chỉ cho đại chúng cũng như tự nhắc mình đã thờ ơ, thiếu sót, chưa tập trung viết nên một bản lược sử đức Tổ sư đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc. Ngài kêu gọi chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái, phải chăng đã đến lúc chúng ta nên ngồi lại với nhau, nghiêm túc thảo luận, thống nhất viết lại hai bản Tiểu sử của đức Tổ sử Minh Đăng Quang. Một bản là lược sử súc tích, song đầy đủ các sự kiện, mỹ từ, cú pháp thoả đáng để cung tuyên trong các buổi lễ Tưởng niệm đức Tổ sư tại các trụ xứ. Một bản tiểu sử khá chi tiết, nêu rõ những sự kiện trân quý, nổi bật, đặc biệt chạm được trái tim và tinh thần cầu học của độc giả, hoặc thính giả khi có nhân duyên thấy nghe.
Hoà thượng đã chỉ cho đại chúng cũng như tự nhắc mình đã thờ ơ, thiếu sót, chưa tập trung viết nên một bản lược sử đức Tổ sư đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc. Ngài kêu gọi chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái, phải chăng đã đến lúc chúng ta nên ngồi lại với nhau, nghiêm túc thảo luận, thống nhất viết lại hai bản Tiểu sử của đức Tổ sử Minh Đăng Quang. Một bản là lược sử súc tích, song đầy đủ các sự kiện, mỹ từ, cú pháp thoả đáng để cung tuyên trong các buổi lễ Tưởng niệm đức Tổ sư tại các trụ xứ. Một bản tiểu sử khá chi tiết, nêu rõ những sự kiện trân quý, nổi bật, đặc biệt chạm được trái tim và tinh thần cầu học của độc giả, hoặc thính giả khi có nhân duyên thấy nghe.
Nhằm nâng cao nhận thức của Tăng Ni Hệ phái Khất sĩ về trách nhiệm thiêng liêng và kiến thức cần có của một vị trụ trì, năm nay Hệ phái tiếp tục tổ chức khóa Bồi dưỡng Trụ trì lần thứ 15 vào đầu mùa An cư tại Pháp viện Minh Đăng Quang, 505 Xa lộ Hà Nội, P. An Phú, Q. 2, TP. HCM, với thời gian từ 1-7/6/2018 (nhằm 18-24/4/Mậu Tuất).
Pháp thoại do Thượng tọa thuyết giảng tại chùa Phổ Quang vào ngày 11/12/2016 (nhằm 13/11/Bính Thân). Với đề tài “ Niềm tin và Trí tuệ”, Thượng tọa đã ví von, xây dựng như một bữa ăn ngon về giáo pháp. Pháp thoại được chia làm 3 phần để người nghe dễ dàng tiếp thu. Nội dung chính nhấn mạnh đến vai trò và chức năng của niềm tin và trí tuệ. Niềm tin trong nhà Phật xuất phát từ phi mê tín (không tin một điều gì), cho đến niềm tin còn dao động, sau đó là bất động. Trí tuệ của nhà Phật là trí tuệ ứng cơ tiếp vật, mang đầy đủ phẩm chất đối với bản thân, người thân và tha nhân. Thiếu một trong hai điều này, con người chúng ta không bao giờ phát triển tốt đẹp và viên mãn đầy đủ.  
Nhân quả là một quy luật khách quan, một đặc tính tự nhiên của vạn pháp, nó xảy ra với tất cả mọi người dù chúng ta có phải là Phật tử hay không. Từ những câu chuyện từ thời Đức Phật và những ví dụ gần gũi trong đời sống, TT. Giác Đăng đã giúp người nghe hiểu rõ về đường hướng và cơ duyên của nhân quả xuất phát từ thân, khẩu, ý trong từng câu chuyện. Từ đó, chúng ta sẽ rút ra cho mình được những bài học trong mỗi lần chúng ta tác ý suy nghĩ và hành động để không phải chịu những đau khổ do chính chúng ta tạo ra.
Vô thường là không thường còn, luôn thay đổi. Từ những hình ảnh gần gũi, cách dẫn dắt giản dị qua những ví dụ về cuộc sống, thượng tọa đã giải thích cặn kẽ cho hàng Phật tử những khái niệm về vô thường, quy y Tam Bảo và về cái chết. Từ đó, người nghe có thể tìm được cho mình một nơi nương tựa đúng nghĩa, một cách sống đúng pháp thích ứng với lý vô thường của vạn pháp.
Tổ chức tại Chùa Phật học Xá Lợi ngày 24-8-2015 (nhằm ngày 11-7 Ất Mùi) trong Chương trình Pháp hội mùa Vu Lan (PL 2559 – DL 2015) Diễn giả: Thượng tọa THÍCH GIÁC ĐĂNG
Pháp thoại do TT. Thích Giác Đăng Giảng tại Niệm Phật đường Chánh Kiến vào ngày 08-01-2016
Vì sao người biết ơn được Đức Phật xếp vào hạng thứ năm trong năm sự quí báu ở thế gian? Một số ví dụ về việc biết ơn và nhớ ơn theo tinh thần lời dạy của Đức Phật. Từ đó, Phật tử quán chiếu lại tâm để xác định mức độ thực hành lòng biết ơn và nhớ ơn của chính mình. Thượng tọa trả lời một số câu hỏi của Phật tử về lòng biết ơn.
Bài học về đường lối tu học Giới - Định - Huệ, oai nghi giới hạnh, phương pháp thực tập chánh niệm, phẩm hạnh khiêm hạ, hiểu rõ hơn về giáo lý Khất Sĩ do Tổ Sư để lại là tập trung vào vấn đề sống chung, học chung và tu chung, bổn phận trách nhiệm của người xuất gia, bởi người xuất gia phải giữ đúng vai trò của mình để trở thành một tu sĩ chân chánh. Khóa Bồi dưỡng Đạo hạnh dành cho Sa Di-Sa Di Ni và Tập sự lần thứ 4 do G.Đ.III Hệ Phái khất sĩ tổ chức tại Đạo tràng Tịnh Xá Ngọc Túc (ngày mùng 8-18 tháng 2 năm Quí Tỵ. Đây cũng là những hình ảnh và lời huấn từ cuối cùng của cố Trưởng lão Thích Giác Dũng nguyên Đệ tứ trưởng G.Đ.III
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta sẽ tới với Bụt rất khó.
Sự có mặt của đạo Phật đã đem lại luồng sinh khí mới cho xã hội Ấn Độ thời ấy, đã mở ra một lối thoát cho con người trước những bế tắc, những khủng hoảng về xã hội, về tư tưởng triết học và đạo học. Lời tán dương Đức Phật của người đương thời còn ghi chép lại đã chứng minh điều đó: "Thưa ngài Cồ Đàm, thật vi diệu, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho ai có mắt có thể thấy" (Nikàya).
Nhân bản, Bình đẳng, Từ bi, Vô ngã là những trọng điểm được đề cập trong Phật giáo, nhưng đó chính là những yếu tố cần thiết của con người nếu muốn tạo hạnh phúc thật sự cho chính mình và thiết lập một nền hòa bình thực sự cho nhân loại.
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở tại đây, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo. "Chư Hiền Tỷ-kheo". --"Thưa Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta nói như sau:  
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Bà-la-môn Janussoni đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni bạch Thế Tôn:  
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo", --"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!" --"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người pháp môn phòng hộ tất cả lậu hoặc". Hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn".
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!". "Bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người "Pháp môn căn bản tất cả pháp". Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.   
Thông qua bài kệ "Tĩnh tâm", Hòa thượng gởi đến Phật tử lời sách tấn về những chơn lý huyền diệu của Đức Phật. Với những câu chuyện cụ thể, Hòa thượng đã chỉ ra lẽ thật về sanh, già, bệnh, chết. Bức tường sắc, tài, danh, lợi đã che con mắt trí tuệ, xoay chuyển thân tâm này đau khổ,  phiền não, vào ra trong sanh tử luân hồi. Hòa thượng nhắn gửi rằng con đường duy nhất để giải thoát không gì khác hơn là tu mau kẻo trễ, học và hành ngay trong giáo pháp. Từ đó, bước những bước chân vững chắc trên con đường đạo, đem lại lợi ích cho mình và cho nhân sanh.
Nhân lễ an vị kim thân Phổ Hiền Bồ-tát, Hòa thượng khuyến tấn những người con Phật: hãy luôn thực hành sự cung kính, cúng dường Tam bảo; luôn tôn trọng, quí mến, đáp đền công ơn trưởng dưỡng của các bậc tôn túc; hết lòng nguyện cầu, hồi hướng cho tất cả mọi người thân tâm luôn an lạc. Làm được những điều đó, chính là đã khai mở con đường hướng thiện và giải thoát.
Con người sống trên cõi đời này, đều ngưỡng vọng tìm cầu hạnh phúc. Vì tìm cầu hạnh phúc mà mải mê rong ruổi ngược xuôi. Nhưng ít ai biết rằng hạnh phúc đích thực lại nằm trong bên trong của mỗi con người. Chỉ khi quay về với chính mình, nhìn lại chính mình,để lòng thanh thản, ta mới nhận chân ra được hạnh phúc. Và thế giới này mọi sự vật hiện tượng đều có mối tương quan, khi ta được bình an, hạnh phúc thì những người xung quanh ta mới được hạnh phúc, bình an."Tâm bình thế giới bình, tâm an vạn sự an".
Mở đầu bài Pháp, Thượng tọa nhắc đến bài kinh: Phật thuyết A Di Đà kinh. Từ đó, TT khuyến tấn hành giả tu Tịnh độ nên thường xuyên quán niệm về cái chết , để chuẩn bị cho sự ra đi của mình về thế giới Tây phương Cực lạc. Thượng tọa nhấn mạnh: niệm chết là suy nghĩ hay quán niệm về sự tan rã, vô thường và đoạn diệt của thân năm uẩn. Bằng cách thường xuyên quán niệm như thế, hành giả sẽ thêm tinh tấn và nhất tâm niệm Phật. Hành giả sẽ chuẩn bị cho mình một năng lượng mới, một thái độ mới khi đối diện với sự ra đi, bằng tâm thanh thản, nhẹ nhàng.  
Thượng tọa trao đổi với Phật tử về pháp môn Tịnh độ, ngõ hầu sách tấn nhau, cùng hướng đến mục tiêu vãng sanh giải thoát ở đời này. Đây cũng chính là mục tiêu mà người Phật tử khi phát tâm tu Tịnh độ, do vậy, cần phải hiểu rõ những điều kiện cần thiết để đạt đến cảnh giới Cực lạc, cụ thể là theo lời nguyện thứ 48 của đức Phật A-di-đà. Thượng tọa khuyến tấn và chúc Phật tử thành tựu pháp môn niệm Phật ngay trong đời này.
Nhân ngày vía Phật A Di Đà, TT. Giác Duyên chia sẻ với hàng đại chúng đôi nét về pháp tu Tịnh độ. Để từ đó giúp người Phật tử có sự hiểu biết chơn chánh về pháp môn Niệm Phật, về thế giới Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và sự cầu vãng sanh về thế giới đó. Tịnh độ là một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh, là một cõi nước trong sạch, không có sự nhiễm ô. Thế giới Cực Lạc là thế giới không có sự đau khổ. Đức Phật A Đi Đà là Đức Phật có vô lượng công đức, vô lượng ánh sáng trí tuệ thấu suốt và bất sanh bất diệt, và đó cũng chính là bản chơn tâm thanh tịnh trong mỗi con người. Người tu pháp môn Tịnh độ phải thấm nhuần ý nghĩa và ứng dụng giáo lý của nhà Phật vào trong đời sống hiện tại để trang nghiêm nơi tự thân của mình, phải biết xả bỏ, không trụ tướng, không chấp trước mà niệm Phật. Nếu tâm của mình có được sự thanh tịnh thì thế giới hiện tại này sẽ là cõi Tịnh độ giữa nhân gian.
Thiền là pháp môn cơ bản mà bất cứ ai cũng có thể thực hành được. Hành thiền không chỉ mang lại sự an định nội tâm, đưa đến niềm vui hỷ lạc, mà còn mang lại cho người thực hành sức khỏe lành mạnh về thể chất cũng như tinh thần. Hành giả nếu áp dụng thực hành thiền điều đặn hằng ngày thì sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống.
Thế giới tâm linh theo Đức Phật dạy là con đường an toàn thực sự mà tất cả hàng đệ tử Phật cần dấn thân thể nghiệm trong cuộc sống của chính mình cho đạt được kết quả tốt đẹp, mới không cô phụ lời giảng dạy và sự hộ niệm của Đức Phật, của Bồ-tát, của Long thiên Hộ pháp và của chư vị Giáo thọ sư cho chúng ta một ngày tu, nhiều ngày tu, nhiều đời tu luôn an lạc.
Nghiệp tiếng Phạn là karma hay karman, tiếng Pali là kamma, có nghĩa là một "hành động", một "hành vi". Vần kar (car) trong chữ karma có nghĩa là "hành động", "tác động", và cũng là vần gốc làm phát sinh ra chữ creare trong tiếng La-tinh, chữ creare lại biến thành créer khi chuyển sang tiếng Pháp và chữ create trong tiếng Anh, tất cả các chữ này đều có nghĩa là tạo ra, gây ra... Tóm lại có thể hình dung karma như là một động lực thúc đẩy để tác tạo một cái gì đó.
Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Trong thế giới tương quan duyên sinh, mỗi sự vật, hiện tượng đều có những nguyên nhân của nó. Nguyên nhân của một sự thể (pháp) gọi là nhân, và hiện hữu (pháp) của sự thể đang tồn tại là quả. Trong mối tương quan nhân quả này, mỗi hiện hữu vừa là nguyên nhân vừa là kết quả như sự tuần hoàn của mây, mưa, nước, hơi nước... Nguyên nhân chính (trực tiếp) của một hiện hữu gọi là nhân, nguyên nhân phụ (gián tiếp) có ảnh hưởng đến quả gọi là duyên (hay các điều kiện phụ thuộc); do đó, nếu nói đủ là nhân - duyên - quả.
Hiểu được lý do vô thường của vạn vật để mỗi người chúng ta cố gắng học hỏi và tu tập, đem tình yêu thương san sẻ với muôn loài bằng trái tim hiểu biết. Chúng ta đừng quá say mê, tham đắm vào xác thân này mà làm khổ luỵ cho nhau. Câu chuyện trên cho ta một bài học đạo lý về mạng sống con người vốn vô thường, tạm bợ. Quý vị nên nhớ rằng, sau khi chết không phải là hết hay mất hẳn, mà chết chỉ là hình thức thay hình, đổi dạng mà thôi, rồi tuỳ theo nghiệp báo tốt, xấu của mỗi người đã gieo tạo trong hiện tại, mà cho ra kết quả trong tương lai.
Ba mục tiêu của Giáo Pháp: (1) Hạnh phúc ngay trong kiếp sống hiện tại theo thế gian pháp, (2) Hạnh phúc cho những kiếp sống vị lai, và (3) Hạnh phúc của Niết-bàn tối hậu, thì chúng ta nên chú trọng và nhấn mạnh đến mục tiêu thứ nhất. Tức là mục tiêu hạnh phúc ngay trong kiếp sống hiện tại theo thế gian pháp.
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời.
Pháp thoại do Ni sư Phụng Liên giảng trong khóa tu Xuất Gia Gieo Duyên lần 2 tại chùa Giác Ngộ, ngày 03-05-2017
Nghiệp cũ là nhân, nghiệp mới là duyên; duyên luôn tác động vào nhân, tùy theo nghiệp mới tích cực hay tiêu cực mà hình thành quả báo khác nhau. Nhân-duyên-quả vận hành phức tạp, cuộc sống là tổ hợp của nhiều chuỗi nhân-duyên-quả luôn tương tác và chi phối lẫn nhau tạo ra một hiện thực sinh động đến độ “không thể nghĩ bàn” với người thường. Phật giáo nhìn mọi hiện tượng sinh diệt, thiện ác qua lăng kính duyên khởi (do duyên mà hiện khởi). Những vụ án xâm hại tình dục nói riêng và các việc khác nói chung, ngoài trách nhiệm cá nhân còn có cả cộng đồng, xã hội.
Dù chỉ như đốm lửa nhỏ hay ánh sáng đom đóm, chúng ta cũng phải làm phương tiện soi đường cho chính mình và cho người xung quanh đi theo dấu chân Đức Phật. Có phước duyên sâu dày được sống trong vòng giáo huấn của Ngài, chúng ta nên lựa chọn cho mình một pháp môn thích hợp và tinh tấn hành trì không gián đoạn. Khi nhận ra Phật tâm hằng hữu, phát khởi Trí vô sư, sống trọn vẹn bằng gia tài đồ sộ, ta mới thoát kiếp cùng tử lang thang trong luân hồi vô tận. Có như thế, ta mới không cô phụ bản hoài của chư Phật và không cô phụ tánh linh của chính mình.
Đức Phật thường khuyên các đệ tử cư sĩ không những nỗ lực tu các thiện pháp mà còn khích lệ tu tuệ giải thoát. Pháp thực hành cụ thể là thiền quán trên mọi hiện tượng để thấu đạt lý sanh diệt. Sanh diệt là ý nghĩa của giáo lý duyên khởi, pháp mà Đức Phật đã thực hành và chứng đắc quả vị giải thoát. Phật dạy rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Ai thấy pháp là thấy Ta (Phật)”. Quán các pháp tùy duyên sanh, tùy duyên diệt thì tâm chấp thủ và phiền não sẽ đoạn trừ. Từ đó tâm ly dục, ly bất thiện pháp xuất hiện, an trú vào trạng thái thanh tịnh của bậc Thánh. Mọi hành động tu tập đều chỉ đạo bằng trí tuệ, làm phước thiện với tâm không chấp thủ đều là yếu tố đưa đến chứng ngộ quả vị giải thoát.
Phật pháp, trên tất cả, luôn đưa ra một giải pháp cho vấn đề cơ bản của con người. Cũng theo Phật giáo, sự hiện hữu của con người hàm chứa một sự kiện vô thường: không có hạnh phúc nào và cũng chẳng điều gì có thể kéo dài mãi mãi...
Có những niềm hạnh phúc muộn màng, và có những nỗi đau không đếm được. Cũng đôi lúc muốn buông xuôi, bỏ cuộc, vì lòng người gai độc cứ thản nhiên. Nhưng có ai đi hết chốn bao dung mà không trải qua những mịt mờ cát sỏi. Hoa xương rồng đã giải thiêng lời hỏi, để cát bụi kia hòa ánh sáng cõi con người... Tình đi thôi, và đời đi đôi, không và sắc, sắc như không, từng cánh thắm dệt từ bi bất tuyệt...
“Nếu tôi đã làm ai đó đau khổ hay tổn thương, bằng lời nói hay hành động, Tôi xin được tha thứ. Và tôi cũng tha thứ cho bất cứ ai đã làm tôi đau khổ hay tổn thương”. Cuộc sống này thật là ngắn ngủi, thật đau thương, và oan trái lại quá nhiều. “Tha thứ” nếu chúng ta ứng dụng được tới mức nào thì sẽ đem lại hạnh phúc an vui trong nội tâm chúng ta tới mức đó. Xin được tha thứ và sẵn lòng tha thứ cho người khác chính là thông điệp mà Sư cô Tâm Tâm muốn gửi gắm đến chúng ta trong bài pháp thoại này. Một thông điệp đầy tính nhân văn và lòng từ bi, hướng tâm con người đến sự bình yên và hạnh phúc. Lắng lòng nghe, xin hãy lắng lòng nghe và suy ngẫm… trước mắt chúng ta một thế giới đầy đau khổ, hận thù và lòng tha thứ. Hãy thấu hiểu cho nhau, tha thứ cho nhau, và hãy thương yêu nhau khi chúng ta còn có thể. Tịnh độ chính là đây!
Sư cô dẫn dụ hình ảnh con ngựa bất kham,khó thuần thục ví như tâm bệnh hoạn,tâm suy cố chấp,tâm hoang dã sống theo tập khí,hoang dại không biết nhận lỗi và không biết sám hối. Để uốn nắn cho tâm này được mềm mại,nhu nhuyến không gì khác hơn là biết có tàm có quý mở tâm ra biết lỗi và nhận lỗi,sám hối.Quan sát tâm của mình không sống phóng dật,buông trôi,tu sửa điều phục tâm loại bỏ tập khí xấu.Nghe học giáo pháp để hiểu và hành trì pháp để trí tuệ phát sanh trưởng dưỡng tâm mát mẽ,nhẹ nhàng,thanh thoát. Bên cạnh đó Sư cô khuyên chúng ta đừng sống liều mạng,đừng nghỉ liều mạng,nên lắng nghe và sáng suốt những điều không tốt trong tâm tìm thầy hay thuốc giỏi để giữ tâm được yên ổn và tiến tu lên con đường thiện lành.
Phước là những điều mà chúng ta đã tạo nên từ vô lượng kiếp đến nay . Đó là phước về trí tuệ và phước thiện. Trong bài pháp thoại này , Sư Cô đề cập đến vấn đề sau: phước có tài sản và phước được hưởng tài sản của mình. Sư cô đã dẫn dụ nhiều câu chuyện nhằm lý giải những nguyên nhân dẫn đến việc thọ hưởng phước có tài sản.Từ đó, Sư Cô khuyến tấn đại chúng tiếp tục trưởng dưỡng pháp bố thí,cúng dường, phụng sự để tạo phước cho đời này và đời sau. Bên cạnh đó,Sư Cô cũng nhắc nhở mọi người phải biết tìm cầu hạnh phúc cao thượng,biết chăm lo đời sống tu tập để phước trí ngày càng tăng trưởng.
Không chỉ bố thí mới được phước, mà nghe chánh pháp cũng có phước báu. Sư cô đã mở đầu bài pháp bằng cách đặt vấn đề hết sức gần gũi và thiết thực như vậy. Trong bài pháp, Sư cô đã phân tích môt số nội dung chính như sau: Thế nào là chánh pháp? Những ai có thể nghe pháp? Phước báu của sự nghe pháp? Bằng các câu chuyện kể sinh động về việc nghe pháp từ thời Đức Phật, Sư Cô đã phân tích và minh họa thật sâu sắc các nội dung trên. Cuối cùng, Sư cô nêu lên quả thiện lành đạt được trong việc nghe pháp. Hiểu được những quả phước của việc nghe pháp, Phật tử thêm tăng trưởng tâm qui kính pháp, có thái độ chân chính khi nghe pháp, quyết tâm học và hành trì theo chánh pháp của Đức Thế Tôn.
Sư cô dẫn dụ nhiều câu chuyện trong bài pháp thoại khuyên chúng ta nên tu tập giữ vững thiện căn,và đối xử tốt với mọi người xung quanh. · Không gieo điều ác,nhận ra được nhân quả nghiệp báo để từ đó nhận định tỉnh táo,hiểu biết mà xử lý tìm ra con đường giác ngộ cho chính mình. Chuyên tâm tu tập không ngừng nghỉ,tự giác sám hối,rèn luyện ý chí tăng trưởng tâm từ để khơi dậy trong mình đời sống nội tâm một nguồn suối mát không oán hận.Làm những điều tốt đẹp để đem lại lợi ích an vui và hạnh phúc cho đời sống của mình.
Thuyết giảng tại đạo tràng Tịnh xá Trung Tâm - Q. Bình Thạnh, ngày 30.07.2015 (15.06.Ất Mùi)
Thuyết giảng tại Tịnh xá Ngọc Minh - Thủ Đức Khóa tu Một Ngày An Lạc lần thứ 31 Ngày 14/11/2013 (12-10 Quý Tỵ)
Bài giảng tại Pháp viện Minh Đăng Quang trong Khóa tu Tuổi trẻ & Đạo Phật vào ngày 21/5/2017 (nhằm 26/4/Đinh Dậu)
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Minh (Thủ Đức) vào ngày 28/08/2012 (nhằm 12/07/Nhâm Thìn).
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Minh (Thủ Đức) vào ngày 21/02/2013 (nhằm 12/Giêng/Quý Tỵ)
Bài giảng tại tịnh xá Ngọc Minh (Thủ Đức) vào ngày 18/08/2013 (nhằm 12/07/Quý Tỵ).
Là con người chánh niệm, an lạc, và tỉnh thức, với chánh kiến và chánh tư duy, xuyên qua việc tu, học, hiểu, áp dụng, và thực Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta có thể nhận diện và chuyển hóa thân - tâm. Qua quá trình nhận diện và chuyển hóa thân - tâm, chúng ta có cơ hội nhìn sâu và nhìn rõ mình hơn bằng cách quán chiếu chúng một cách chi tiết.  Thân và tâm là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành con người hữu ngã, năm uẩn, hay con người vô ngã; Ngã là một con người do năm uẩn hình thành. Cũng vậy, con người vô ngã có nghĩa là con người duyên sinh, tương thuộc, và tương tức đầy đủ với sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.    
Thượng tọa Minh Thành hồi ức về những tháng ngày làm thị giả với Cố Hòa thượng Pháp sư Giác Nhiên.
Hòa thượng nhắc lại lời huấn thị của Tổ sư Minh Đăng Quang: “Khất sĩ là học trò khó đi xin ăn để tu học, là cái sống của chân lý vũ trụ hiển nhiên, không thay đổi”. Hòa thượng chỉ rõ hình ảnh vị Khất sĩ mà Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng đó chính là ở chỗ kiến tánh, thành tựu pháp nhãn, thấu hiểu chơn lý như thật. Hòa thượng cũng khẳng định người khất sĩ hướng đến giác ngộ, không hệ lụy trong năm món dục lạc, không chìm đắm trong ngã mạn, để thành tựu Chánh tri kiến, hướng vào Niết bàn.
Hòa thượng tiếp tục triển khai tư tưởng nổi bật của người khất sĩ, nhấn mạnh tánh thấy biết như thật, thấy được sự nhơ nhớp của bụi tham, sân, si - làm dơ bẩn, ô uế thân tâm của người tu sĩ. Giải tỏa những nghi vấn về người khất sĩ ngang qua các câu chuyện hoặc các bài kinh: Anh em nhà Julabandaca, Đại kinh Sư tử hống, Angulilama, từ đó, loại trừ đi sự ngã mạn, tâm hẹp hòi, thoát ly ra khỏi sự bám víu thiện ác để đạt tới tự tại, an lạc; Nhận chân sự thấy biết, nuôi dưỡng có định hướng, không chấp trước, được hướng dẫn bởi bậc chân sư, nối truyền Thích-ca chánh pháp cho đến lúc tiếp nhận được giáo lý thâm sâu của Phật pháp.
Dục vọng là vấn đề lớn của nhân loại nói chung và của Tôn giáo nói riêng. Trong khuôn khổ của đề tài, dục vọng được hiểu là sự luyến ái của nam nữ, chỉ cho những phiền não do tham đắm chấp thủ đối với 5 đối tượng đó là: của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ mà không bao giờ nhàm chán. Dục vọng là một trong những nguyên nhân làm cho chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử, luân hồi…. HT. Giác Toàn dẫn giải phương pháp chuyển hoá dục vọng theo lời Đức Phật dạy, để giải phóng và định hướng dục vọng sao cho đúng hướng tạo điều kiện cho mình mục tiêu làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
"Định hướng nhận thức tu tập" được HT. Giác Toàn thuyết giảng trong Khóa tu Truyền thống Khất Sĩ lần 23 tại Tịnh xá Ngọc Thạnh – Bà Rịa Vũng Tàu, ngày 23/10/2017 (nhằm ngày 04/09 Đinh Dậu)
"Kiêu căng mất phước" là chuỗi đề tại được Hòa thượng giảng dạy trong khóa tu Ngày An Lạc - Kỳ 205 tại Chùa Phổ Quang, 62 Huỳnh Lan Khanh, Quận Tân Bình, ngày 7/4/2013
"Sám hối thế nào cho đúng" là chuỗi đề tại được Hòa thượng giảng dạy trong khóa tu Ngày An Lạc - Kỳ 408 tại Chùa Phổ Quang, 62 Huỳnh Lan Khanh, Quận Tân Bình, ngày 16-07-2017.
Hòa thượng mở đầu bài giảng bắng cách đặt vấn đề: khi tu học, Phật tử cần nhìn rõ về chính mình và các Pháp. Nói cách khác là: nhìn rõ lẽ thật. Hòa thượng nhắc lại câu chuyện “Thiền sư đã táo đọa thành danh.” Nội dung câu chuyện nói lên lý vô sanh.Do chấp dính của cải,tài sản,danh vọng,địa vị không buông bỏ nên dẫn đến khổ đau,và là nguyên nhân của sanh tử . Hòa thượng cũng trích dẫn câu số 2 trong kinh Pháp Cú:“Con tôi tài sản đâu / Người mê sanh u não / Tự ta,ta không có / Con đâu tài sản đâu”, để minh họa rõ hơn cho ý Pháp này. Từ đó, Hòa thượng khuyên người trí nên từ bỏ chấp thân,dứt ý,cắt tham dục,hết ái để được vô sanh.
Bộ Chơn Lý do Tổ sư biên soạn được hầu hết các bậc trí thức khi nhận ra giá trị đều nói rằng kho Pháp bảo quý báu vô giá trong vũ trụ, ngoài bậc Phật, Bồ-tát ra đều là những kẻ rờ mó bên ngoài. Nay đức Ngài có chìa khóa và đã mở được cửa, và chính những quyển Chơn Lý triết lý này là những vật báu trong kho ấy.
Hòa thượng khuyên các vị hành giả sơ cơ sau khi bước chân vào thiền định phải nổ lực gia công, tầm sư tìm thầy khai thị đi vào kiến tánh. Hòa thượng dẫn dụ hình ảnh con khỉ trong lồng kính 6 mặt. Từ đó, cảm nhận ngay sự thấy biết của sắc và thân, nghiên cứu nguyên nhân sanh khởi lục căn rồi thuận theo căn mà tiến hóa.  Hòa thượng tiếp tục  phân tích rõ giới hạn căn,trần,thức,tính vô thường của thế gian . Do vô sanh mê mờ trong 3 cõi dục giới,sắc giới,vô sắc giới, không thấy được tập khí ô nhiễm của lục căn,làm trì hoãn con đường chí thiện tối thắng an định đạo lộ. Như vậy, để thấy rõ con đường giải thoát, không gì khác hơn là phát triển tuệ tri và giác tri . Từ đó, xác định hướng tu tập, xuất ly ra khỏi nhân quả khổ đau.  
Pháp thoại do TT. Minh Thành thuyết giảng tại Tu viện Tường Vân (Bính Chánh) vào ngày 27/3/2016 (nhằm ngày 19/2/Bính Thân). Nội dung bài giảng: Thượng tọa đã phân tích về từng câu chữ trong kinh A Di Đà, nói lên ý nghĩa y báu - chánh báu. Hạnh phúc, sung sướng của cảnh giới Tịnh độ chính ngay cõi Ta bà này nếu chúng ta sống, làm bằng tất cả tâm từ bi và trí tuệ của Phật thì cảnh Tây phương sẽ chính ngay nơi bản thân, đời sống này.  
Pháp thoại do TT. Minh Thành thuyết giảng tại Pháp viện Minh Đăng Quang (Q.2) vào ngày 16/10/2016 (nhằm ngày 16/9/Bính Thân). Nội dung bài giảng: Thượng tọa muốn nhắn nhủ các bạn trẻ phải biết hiếu kính, trả ơn nghĩa Cha Mẹ và nâng cao trí tuệ hiểu biết cho chính bản thân, gia đình sau đó lan rộng cộng đồng, xã hội bằng phương pháp quy y Tam bảo, noi hạnh từ bi của Phật, bỏ tánh xấu, trao đức hạnh thuần hòa và luôn nghĩ về tứ trọng ân.  
Pháp thoại do TT. Minh Thành giảng tại chùa Phổ Quang (Q.Tân Bình) vào ngày 16/10/2016 (nhằm 16/9/Bính Thân) Với chủ đề “Học hạnh buông bỏ” Thượng tọa đã chỉ rõ cho đại chúng biết rằng đằng sau miếng mồi ngon luôn luôn là khổ lụy và chúng ta cần phải biết cách buông bỏ như hạnh pha trà “hãy đun sôi cái tôi của bạn, bay hơi mọi lo lắng, pha loãng mọi muộn phiền, lọc đi những sai lầm, sau đó hãy thưởng thức sự hạnh phúc”. Cuối cùng, Thượng tọa muốn nhắn gửi người tu học Phật pháp không phải để ráng chịu, ôm chấp mà phải thực hành, để phát huy năng lực chủ động của mình, làm chủ tâm thức vận mệnh và con tàu bản thân mình trong trần gian luôn điều chỉnh liên tục này bằng “khả năng đồng đều, chép vào và xóa đi”.  
Pháp thoại do TT. Minh Thành thuyết giảng tại chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 13/11/2016 (nhằm ngày 14/10/Bính Thân). Nội dung bài giảng: Thượng tọa nêu lên những tác hại của sự phóng dật, sự chi phối của năm dục và muốn được an lạc, hạnh phúc thì chỉ có phương pháp chủ lực đó là chánh niệm. Chánh niệm là sự vô tư, đơn giản, hiện tiền bây giờ và ở đây, sống có chánh niệm thì sẽ có tất cả.  
Pháp thoại do TT. Minh Thành giảng tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Vĩnh Long) vào ngày 16/4/2016 (nhằm 10/3/Bính Thân). Nội dung bài giảng: Thượng tọa định nghĩa, phân tích những điểm giống và khác nhau của 4 tầng thiền trong kinh tạng Nikaya. Hành giả học và phải thực hành, trực tiếp theo dõi quán sát dòng chảy của tâm thức đến khi không còn có phân biệt. Ví dụ như một đoạn đường dài 100km chia 4 chặng, mỗi chặng có một cột mốc là 25km. Lần đầu đi chúng ta sẽ nhìn, quan sát biết từng cột mốc, nhưng khi quen đường rồi thì ta đâu để ý bên đường có cột mốc nữa. Cũng vậy khi ta tu tập từ ly dục, ly ác, bất thiện pháp cho đến xả niệm thanh tịnh, làm chủ được Vô thức nghĩa là có thể dừng được hơi thở, dừng mọi sự sống, nhập định vài trăm năm rồi xuất định, sống bình thường, sống tiếp cái tuổi ngày xưa.   
Pháp thoại do TT. Minh Thành thuyết giảng tại Nhà hàng chay Mandala vào ngày 22/3/2014 (nhằm 22/2/Giáp Ngọ) Nội dung bài pháp: Thượng tọa đã trình những vấn đề xấu ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc sống, tâm thức như một xã hội thu nhỏ lại, chúng ta muốn được hạnh phúc, an lạc thì phải giữ vững trên lưng con trâu tâm thức, luôn quán sát dõi theo từng hành động trong bộ máy tâm thức ấy, theo dõi hơi thở từng phút giây, bây giờ và ở đây nhằm loại bỏ các tạp niệm để trở về bản thể chân như của mình thì chất lượng cuộc sống mới đúng nghĩa.  
Pháp thoại do TT. Minh Thành thuyết giảng tại chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 28/01/2018 (nhằm ngày 12/12/Đinh Dậu). Nội dung bài giảng: Thượng tọa nêu lên 5 loại độc tố của ác ma (lo âu, không vừa bụng, vô minh, thụ động, quên lời nguyện) đã ngấm ngầm cài vào mỗi con người của chúng ta, đồng thời chỉ cách hóa giải là nhận diện được muộn phiền và phương pháp hóa giải, còn không có cách hóa giải thì chẳng lo làm gì!  
“ Niềm tin mà không có sự hiểu biết tận gốc thì dễ trở thành mê tín”. Một người Phật tử mê tín sẽ gây nguy hiểm cho sự tồn vong của đạo Phật. Do đó chúng ta phải học pháp và hành pháp một cách nghiêm túc. Phải thường xuyên nuôi lớn và phát triển các căn lành đang tiềm ẩn trong mỗi con người chúng ta. Những căn lành đó chính là: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. Để phát triển được những căn lành đó thì đòi hỏi người Phật tử phải có trí tuệ, có niềm tin chân chánh vào giáo pháp. Pháp thoại “Thế nào là căn tu” được Hòa thượng Giác Giới thuyết giảng chính là kim chỉ nam để chúng ta nương theo mà tu tập, tránh đi những quan niệm sai lầm, có lòng tin tuyệt đối với chánh pháp để xứng đáng là người con Phật đúng nghĩa.
Sự thật về khổ và con đường đoạn tận khổ là những nội dung chủ yếu của giáo lý Đức Phật. Suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật luôn hướng đến việc dắt chúng sinh đi trên con đường giác ngộ, giải thoát. Trong phần mở đầu bài giảng, Hòa thượng đã nhấn mạnh những ý đó, như là lời lý giải vì sao Hòa thượng chọn đề tài này. Bằng việc phân tích, dẫn chứng một số bài kinh, Hòa thượng nhấn mạnh: người học Phật, khi tinh tấn nghe Pháp theo hướng văn - tu - tư, sẽ có chánh tri kiến. Đây là điều kiện cần để thực hành Bát chánh đạo. Bát chánh đạo chính là con đường đi đến Niết bàn (đoạn tận đau khổ).
Hòa thượng ôn lại lộ trình tu tập của đức Thế Tôn trong hành trình tìm con đường đi đến giải thoát. Hành trình đó chính là minh chứng cho sự nổ lực tu học, là kết quả của quá trình tư duy, quán chiếu liên tục ở Ngài. Thông qua việc phân tích bài kinh Đức Phật giảng về ba hạng người tu, Hòa thượng có lời sách tấn Phật tử hãy tinh tấn nghe Pháp, suy tư Pháp và thân cận học hỏi các bậc thiện tri thức. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tư duy để thành tựu chánh tri kiến, con đường Bát chánh đạo, hướng đến mục tiêu tối hậu là giải thoát.
Trong bài Tiểu kinh Dụ dấu chân voi, Đức Phật xác nhận Ngài có bốn dấu chân: Thánh giới uẩn, Thánh định uẩn, Thánh tuệ uẩn và Thánh giải thoát tri kiến. Thấy được điều này chính là ta đã thấy được Phật, thấy được Pháp thân của Phật. Đức Phật thuyết pháp để đoạn trừ các lậu hoặc, đoạn trừ khổ đau phiền não cho người thấy, người biết, chứ không phải cho người không thấy, không biết. Nhờ vào sự nghe pháp mà ta liễu tri được thực tánh của các pháp, quán pháp bất tịnh, khổ não, vô thường thì lòng tham ái không khởi sanh. Tâm tinh cần, tinh tấn không phóng dật. chuyên chú tu hành, an trú trong chánh niệm, xa rời được phiền não, khổ đau. Nhờ nghe pháp mà ta có được định hướng đi đến sự giải thoát, thấy được mục tiêu của việc giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thành tựu chánh tri kiến.  
Nghe pháp mà không nếm được vị ngọt của giáo pháp là chưa có được sự thành tựu trong việc nghe pháp. Thành tựu của sự nghe pháp là sinh tâm tâm hoan hỷ, như lý tác ý, tín thọ phụng hành, sống và làm theo pháp. Thời Phật thuở xưa, năm anh em Ngài A-nhã Kiều Trần Như nhờ nghe Phật thuyết bài pháp Chuyển pháp luân và Vô ngã tướng đều đắc đạo chứng quả. Phật dạy “ Này các Tỳ kheo, hãy nghe và khéo tác ý. Có hai cực đoan mà các ngươi cần phải xa lánh. Cực đoan thứ nhất là sống đắm say phóng dật, hệ lụy trong dục lạc. Và cực đoan thứ hai là khổ hạnh ép xác”. Đây chính là bài pháp đầu tiên của Đức Phật sau khi thành đạo, nêu lên sự thật của bốn chân lý mà trải qua vô lượng kiếp tu hành Đức Phật mới chứng ngộ. Ngài thuyết bốn sự thật này làm tôn chỉ, định hướng cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia tu tập, chưa thấu đạt được Tứ đế về khổ thì chưa xứng đáng là đệ tử của đức Thế Tôn. Chúng ta, hàng đệ tử của Ngài phải siêng năng nghe kinh học pháp, tham cứu cho tường tận, như lý tác ý, thúc liễm thân tâm, tấn tu Giới- Định-Tuệ để được lợi ích lớn, quả báo lớn đưa đến giải thoát sinh tử, chứng ngộ Niết-bàn.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, đạo của sự giải thoát. Con đường giải thoát duy nhất là con đường tu tập Giới – Định – Tuệ, chỉ tu Giới hoặc tu Định thì chắc chắn sẽ không giải thoát, không đến được Niết Bàn, mà phải có Tuệ. Trong Chơn Lý, Tổ sư Minh Đăng Quang dạy“Nếu Khất sĩ không có tu về Định, Tuệ, dầu mà có trì giới không đi nữa, vẫn chưa gọi được trọn là Khất sĩ.” Mục đích rốt ráo của người tu là phải đạt cho được trí tuệ siêu thế của bậc Thánh, và muốn đạt được trí tuệ ấy đòi hỏi người tu phải có chánh tri kiến của một bậc Thánh. Pháp thoại “Tầm quan trọng của Thánh Chánh tri kiến trong đạo Phật” được HT. Giác Giới chia sẽ trong khóa tu truyền thống của Hệ phái Khất sĩ lần thứ 19, nhằm khuyến tấn, nhắc nhở chư Tăng Ni trong hệ phái phải nắm vững mấu chốt và tầm quan trọng của việc tu, để căn cứ vào đó mà phát triển trí tuệ thấy biết như thật, thấy được pháp giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Sáng 12-3, tại tịnh xá Trung Tâm (Q.Bình Thạnh, TP.HCM) đã long trọng tổ chức lễ tưởng niệm 59 năm ngày Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng.  
Lễ tưởng niệm Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng lần thứ 63 tại Thiền Viện Minh Quang Sydney vào ngày 26-02-2017
Lễ tưởng niệm Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng lần thứ 62 tại Thiền viện Minh Quang (Sydney) vào ngày 09-03-2016
Phim tài liệu về sơ lược về Đức Tổ sư Minh Đăng Quang
Sáng ngày 17-3 (1-2-Mậu Tuất), tại Tổ đình Minh Đăng Quang (Ấp 6, X.Hậu Lộc, H.Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long), Hệ phái Khất sĩ đã thành kính làm lễ tưởng niệm 64 năm Tổ sư Minh Đăng Quang - người khai sáng H
Sáng ngày 17-3 (1-2-Mậu Tuất), tại Pháp viện Minh Đăng Quang (phường An Phú, Q.2, TP.HCM), Hệ phái Khất sĩ đã thành kính làm lễ tưởng niệm 64 năm Tổ sư Minh Đăng Quang - người khai sáng Hệ phái Khất sĩ Vi
55 tập phim cuộc đời Đức Phật được lồng tiếng và phụ đề tiếng Anh (bấm vào đây để xem trọn bộ)
Mở đầu pháp thoại, Thượng tọa nhấn mạnh: Nhất tâm niệm Phật là điều kiện quan trọng để hành giả tu Tịnh độ được vãng sanh về Cực lạc. Muốn vậy, hành giả cần phải an tâm niệm Phật. Đây cũng chính là chủ đề của bài giảng. Bằng một chuyện kể trích từ kinh Bổn sanh và một câu chuyện xảy ra ngoài đời, Thượng tọa nhắc nhở: tất cả những thuận duyên hoặc nghịch duyên trong cuộc sống, đều là quả của nghiệp mà mỗi người đã gieo trồng từ quá khứ. Do vậy, người niệm Phật, dù trong hoàn cảnh nào, cũng vẫn nên an tâm niệm Phật, cho đến lúc lâm chung.
Chia sẽ cùng các thành viên CLB Nhân Sinh tại Bình Dương - 2015
Pháp thoại "Tâm xuân hạnh phúc" do Đại đức Thích Giác Nhường thuyết giảng tại Khóa tu "Tuổi Trẻ và Đạo Phật" lần 13 ngày 28/01/2018 tại Pháp Viện Minh Đăng Quang
Bốn yếu tố: đầy đủ lòng tin; đầy đủ giới đức; đầy đủ bố thí; và đầy đủ trí tuệ là nguyên nhân quyết định sự thành tựu bốn mục đích là của cải tài sản; danh tiếng tốt lành; khỏe m
Con đường chánh đẳng chánh giác, sẽ đưa người đến kết quả yên vui, người đắc đạo quả ấy kêu là Phật. Tất cả các chi nhánh giáo lý tông môn trong thế gian, đều thảy qui về có một con đường cái đó. Chánh đẳng chánh giác là mục đích, chỗ đến của tất cả chúng sanh, không còn nẽo nào trên nữa, nên gọi là VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC. Ai mà để các sự lo lắng, nghĩ ngợi vào lẽ ấy, gọi là phát tâm VÔ THƯỢNG CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
Đại đức Thích Giác Nhường thuyết giảng chủ đề " Tu Tập An Lạc " trong khóa tu lần thứ 36 tại chùa Minh Hiệp - Đồng Nai . Ngày 19/02/2017 nhằm ngày 23 tháng Giêng năm Đinh Dậu.
Thân trong sạch ấy là xứ Phật, Miệng trong sạch ấy là pháp Phật, Ý trong sạch ấy là con Phật, Tâm trong sạch tức là Đức Phật 
Lễ Bế mạc Khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 23 tại Tịnh xá Ngọc Thạnh, thôn Phước Thành, xã Tân Hòa, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Khóa tu từ ngày 23 đến 30/10/2017 (nhằm ngày 4 đến 11 năm Đinh Dậu)
Không ở đâu có sự an toàn tuyệt đối, cho dù con người đã có thể tính toán sự an toàn ở mọi cấp độ dự cảm, hay nhận thức đúng về vô thường thì con người sẽ biết sống để giảm thiểu thiệt hại
Chủ nhiệm: Hòa thượng Giác Toàn Biên tập: Đại đức Giác Hoàng Thực hiện: Tỳ kheo Minh Điệp và AVG Phim tài liệu về lịch sử hình thành và phát triển của hệ phái Khất sĩ, một trong những thành viên sáng lập GHPGVN, cũng như lược sử cuộc đời, đạo nghiệp của Tổ sư Minh Đăng Quang, người khai sáng ra hệ phái Khất Sĩ Việt Nam. Bộ phim cũng là một vinh dự của ekip thực hiện khi được cống hiến một phần công sức nhân dịp Hệ phái Khất sĩ tổ chức Đại lễ tưởng niệm 60 năm, Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng diễn ra từ 25/2 đến 2/3/2014 tại Pháp viện Minh Đăng Quang - 505 Xa lộ Hà Nội, Q2, TPHCM.
Bằng việc phân tích tiến trình: nhân – duyên - quả, Đại đức đã đề cập đến hai nội dung chính: 1/ Nhà Phật không chấp nhận "số mệnh", "thiên mệnh". Nhưng, ở một mức độ nhất định, nhà Phật cho rằng nghiệp báo quyết định phần nào cuộc sống của mỗi người. Nói theo ngôn ngữ hiện đại thời công nghệ thông tin, mỗi người khi sinh ra, đều có một lập trình sẵn từ quá khứ, trong đó có cả thiện nghiệp và ác nghiệp. 2/ Có thể thay đổi lập trình đó được không? Đức Phật dạy rằng: Con người là chủ nhân của nghiệp. Do vậy, dù lập trình đã có nhưng mỗi người có thể viết tiếp lập trình của mình ở hiện tại. Đại đức nhấn mạnh rằng người trí cần viết lại lập trình bằng ngôn ngữ, hành động và ý niệm thiện lành. Điều đó có nghĩa là con người có khả năng làm chủ và thay đổi vận mệnh của chính mình. Bài giảng kết thúc bằng câu chuyện "Chú Sa-di và đàn kiến" để minh họa cho ý pháp trên.  
Đã biết trước là vậy sao ta không gieo hạt giống lành để mai ta gặt trái ngọt và mang đến cho đời, cho người cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn thua để làm gì? Tranh giành để làm gì? Ghét bỏ để làm gì?
Vô ngã là một trong ba chủ đề chính được Đức Phật đề cập đến trong giáo lý của Ngài trong suốt bốn mươi lăm năm hoằng pháp (vô thường, khổ, vô ngã). Vô ngã cũng chính là vấn đề cốt lõi để giải quyết sinh tử luân hồi, là cánh cửa mở ra con đường giác ngộ, giải thoát cho những người con Phật. Đây cũng là lý do chính để Đại đức chọn thuyết giảng đề tài "Vô ngã trong đạo Phật". Bằng phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, đặt vấn đề theo hướng phản biện, Đại đức đã giải quyết những ý pháp quan trọng: Thế nào là vô ngã? Ý nghĩa của pháp tu vô ngã trên bước đường giải thoát? Đại đức cũng đã giới thiệu một số pháp hành trong lộ trình tu học để đạt đến vô ngã.
Bài pháp thoại được giảng trong khóa xuất gia gieo duyên ở chùa Giác Ngộ. Đại đức đã nêu ý nghĩa cao thượng của lý tưởng xuất gia; đồng thời tán thán quyết định xuất gia gieo duyên của các giới tử tại đạo tràng. Quán vô thường, nhàm chán ngũ dục thế gian, chọn con đường giải thoát - đó là động cơ của lý tưởng xuất gia cao thượng. Đại đức đã chứng minh ý pháp này qua quyết định xuất gia của Ngài Ratthapala, một tấm gương điển hình về quyết tâm xuất gia thời Đức Phật. Bằng cách dẫn giải bài kinh Hữu học, Đại đức đã sách tấn đời sống tu tâp của người xuất gia : cần có niềm tin sâu sắc nơi chánh pháp và thực hành giáo pháp môt cách triêt để. Ngài khẳng định: lý tưởng xuất gia là cao thượng. Xuất gia gieo duyên là gieo trồng hạt giống bồ đề tâm, tạo thiện duyên cho con đường tu tập trong tương lai.  
ĐĐ. Giác Hoàng giảng ngày 15/06/2016 tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM cơ sở 2 Lê Minh Xuân.
Từ việc định nghĩa khái niệm tùy duyên, Đại đức đặt vấn đề: cần hiểu và sống đúng với hai chữ tùy duyên theo tinh thần lời dạy của Đức Phật, để có một cuộc sống nhẹ nhàng, an vui. Đại đức dẫn chứng một số ví dụ cụ thể về cách sống tùy duyên. Đặc biệt, bằng việc phân tích bài kệ "Cư trần lạc đạo" (ngài Trần Nhân Tông), Đại đức đã làm rõ hơn sự khác biệt giữa hai cách sống: tùy duyên và tùy tiện. Đại đức đã khẳng định: tùy duyên là một pháp tu, một nhận thức sống nhẹ nhàng, uyển chuyển, linh động, phù hợp với mọi hoàn cảnh sống. Bài giảng kết thúc với lời sách tấn sâu sắc: Hãy thực tập nếp sống tùy duyên bằng tinh thần vô ngã, vị tha, xả kỷ, bằng tinh thần uyển chuyển, linh động... Từ đó, hướng đến mục tiêu tối hậu là giác ngộ, giải thoát.  
Pháp thoại do Thượng tọa Minh Thành giảng tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM cơ sở 2, ngày 30/10/2016 (nhằm 30/9/Bính Thân). Cốt lõi của bài giảng, Thượng tọa mong muốn Tăng Ni và Phật tử phải thiết lập trái tim có thân đạo, thân pháp, thân thiền bằng cách thực hành hạnh buông bỏ như đun sôi cái tôi, bay hơi lo lắng, pha loãng muộn phiền, lọc đi sai lầm, sau đó thưởng thức hạnh phúc. Song song với buông bỏ là luôn luôn để niệm trước mặt, theo dõi quán sát hơi thở, bởi vì biên giới sống - chết nó được ngăn bởi một màng mỏng hơi thở. Nếu thở đàng hoàng, tươm tất thì chúng ta sẽ có hạnh phúc, thở thâm sâu, trọn vẹn thì có thiền vị và thở trong giây phút hiện tại, an trú hiện tại thì sẽ có giải thoát.
Pháp thoại do TT. Minh Thành thuyết giảng tại Giáo hội Phật giáo Tăng-già Khất sĩ Thế giới - Tịnh nghiệp Đạo tràng An cư Kiết hạ vào ngày 22/7/2013 (nhằm 15/6/Quý Tỵ). Nội dung bài pháp: Thượng tọa kể về cuộc đời, công hạnh của các vị Đạt-lai Lạt-ma, nguồn gốc xuất phát và ý nghĩa của danh xưng này là đại vương, hàm nghĩa cho trí tuệ, rộng lớn mênh mông như biển cả do Thái tử Mông Cổ ban cho vị Lạt-ma thứ 3.
Pháp thoại do TT. Minh Thành giảng tại chùa Giác Ngộ vào ngày 10/12/2017 (nhằm 23/10/Đinh Dậu). Đến với đề tài “Niềm tin trong đạo Phật” Thượng tọa đã nêu lên 4 hình tượng miêu tả chữ Tín (nền đường, người mẹ, kho báu và bàn tay) và 9 công năng của Tín (sinh ra công đức, tăng cường phẩm tín thiện trong tâm hồn, xóa tan mọi nghi hoặc, chỉ cho thấy con đường vô thượng và mở cửa đi vào giác ngộ, công năng tẩy uế, ổn định tâm, xóa tan kiêu mạn, làm nền cho lòng cung kính, cuối cùng tiếp nhận tất cả hạnh lành) trong Kinh Hoa Nghiêm để mong muốn một điều đó là tin chính mình, tin vào năng lực nhận thức, chuyển hóa của mình và hãy thực hành hạnh buông xả để trở về con người thật của mình.  
Pháp thoại "Ý nghiệp - Căn, Trần, Thức" do HT. Giác Toàn thuyết giảng cho các bạn trẻ tại Khóa tu "Tuổi Trẻ và Đạo Phật" lần 3 ngày 13/11/2016.
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói đến quan hệ nhân - quả, nghĩa là nhân nào - quả ấy, gieo gió thì gặt bão, ở hiền thì gặp lành.
Sự tàn phá do ảnh hưởng bởi lòng thù hận dễ nhận thấy, rõ ràng và tức thời, như là một niệm sân hận có mặt, lớn mạnh, tư nhiên chi phối hoàn toàn bạn và phá hũy sự an lạc có nơi bạn.
108 lời dạy thực tiễn của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác t
Tân cổ Phật giáo chọn lọc mới nhất - Ca cổ Phật giáo của Danh ca Nguyễn Kha
Thầy Thích Nghiêm Bình - Chùa Bửu Long Bàu Tượng, ấp Xóm Khách, xã Long Giang, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh
Vầng trăng Tịnh độ - Tân cổ Cải lương Phật giáo hay, mới nhất 2017
Relationship to the Great Compassion Mantra - It is generally believed that this dhāraṇī has no direct relationship with the The Great Compassion Mantra in Mahayana Buddhism. However, it is often falsely named as Tibetan Great Compassion Mantra (藏传大悲咒) or The Great Compassion Mantra in Sanskrit (梵音大悲咒) in Chinese-speaking regions. Some people believe that this dhāraṇī is told by the Eleven-Faced Avalokitesvara, an esoteric bodhisattva in Tibetan Buddhism, and that it is the equivalent Tibetan version of The Great Compassion Mantra in Mahayana Buddhism. This is why it is often being referred to as Tibetan Great Compassion Mantra. However, this opinion is not accepted by most Mahayana Buddhists.
HT.Giác Toàn thuyết giảng tại Chùa Phổ Quang Khóa tu Một Ngày An Lạc lần thứ 240 Ngày 4/8/2013 (28.06.Quý Tỵ)
Thuyết giảng tại đạo tràng Chùa Phổ Quang Khóa tu Một Ngày An Lạc lần thứ 243 Ngày 08/09/2013 (04.8.Quý Tỵ)
Khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần 19 tại Tổ đình Minh Đăng Quang - Vĩnh Long
Khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần 20 tại Tịnh xá Ngọc Yên - Gia Lai
Hòa thượng chia sẻ về công hạnh, chỉ giáo Tứ trọng ân, ơn Cha mẹ, ơn Thầy tổ, ơn Tổ quốc và ơn chúng sanh. Thầm mang ơn đức đó mà ta mang tấm thân này nên phải biết ơn, nhớ ơn và đền đáp ơn. Bên cạnh đó, Ngài giảng cho chúng ta biết rõ thêm thế nào là mất phước an vui. Thật vậy, đừng vì tâm sân hận mà thiêu rụi rừng công đức, mọi vấn đề về nghiệp đều phát sinh từ chỗ tác ý, hành động tạo tác được lập đi lập lại nhiều lần trở thành thói quen. Nếu chúng ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh, thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để tích lũy phước đức và công đức làm nền tảng cho ta có cuộc sống an lành hạnh phúc.
Đã là con người ai ai cũng đều có sở nguyện hướng đến cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Nhưng thực tế cuộc sống này, phước nghiệp của mỗi cá nhân tạo ra dẫn dắt ta đi theo vòng xoáy nhân quả của nó. Chỉ khi biết tu, biết quay về nương tựa giáo pháp của Đức Phật với sự chánh niệm tỉnh giác, luôn an vui trong hiện tại thì khi đó mới nhìn lại được chính mình, bình yên hay sóng gió, hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tự tạo. Đức Phật dạy hãy là hòn đảo tâm linh của mình, dừng lại an trú để giữ cho cõi lòng được bình yên trước những thăng trầm biến đổi của cuộc đời.  “Tự mình điều ác làm, Tự mình làm nhiễm ô. Tự mình ác không làm, Tự mình làm thanh tịnh. Tịnh không tịnh do mình, Không ai thanh tịnh ai”.  
Nguồn mạch tâm linh là hành trình tu tập quay về bên trong chính mình để chuyển hóa nội tâm, đoạn trừ phiền não, chứng nghiệm được niềm an vui, hạnh phúc ở đời này và đời sau. Ở một tầng bậc cao hơn, đây là con đường nỗ lực tu tập để thân chứng quả vị giải thoát. Trong xã hội hiện đại, khi đời sống vật chất ngày càng phát triển, khi những giá trị đạo đức bị xem nhẹ, việc giữ gìn thân, khẩu, ý trong sạch (theo lời Phật dạy), càng hết sức cần thiết. Bằng việc phân tích những ví dụ cụ thể trong cuộc sống đời thường, Hòa thượng sách tấn Phật tử nên thường xuyên làm lành, lánh ác, thanh tịnh tâm ý. Từ đó, sẽ có cuộc sống an vui trong đời này, và nhân lành cho đời sau.
HT . Giác Toàn thuyết giảng tại Chùa Phổ Quang Khóa Tu Một Ngày An Lạc lần thứ 217
Pháp thoại do Hòa thượng thuyết giảng tại Chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 17/08/2014 (nhằm 22/07/Giáp Ngọ).
Thuyết giảng tại đạo tràng Chùa Phổ Quang - Khóa tu Một Ngày An Lạc lần thứ 243
Pháp thoại do Hòa thượng thuyết giảng tại Chùa Phổ Quang (Tân Bình) vào ngày 19/02/2012 (nhằm 28/Giêng/Nhâm Thìn).
Kinh tụng tam thiên bộ, Tào Khê nhất cú vong. Vị minh xuất thế chỉ, Ninh hiết lụy sanh cuồng. Dương lộc ngưu quyền thiết, Sơ trung hậu thiện dương. Thùy tri hoả trạch nội, Nguyên thị pháp trung vương.  
Thuyết thông và tâm thông, Như mặt trời giữa không, Chỉ truyền pháp kiến tánh, Ra đời phá tà tông. Pháp thì không đốn tiệm, Mê ngộ có mau chậm, Chỉ pháp kiến tánh này, Người ngu không thể hiểu.
Tâm kinh là kinh tinh yếu của toàn bộ Đại Bát Nhã. Tuy bộ tâm kinh chỉ vỏn vẹn có 260 chữ mà ý nghĩacủa nó bao hàm cả 600 quyển Đại Bát Nhã. Ma Ha là lớn, là đại. Lý do Ngải Trần Huyền Trang gọi nó là tâm kinh bởi vì Ngài ám chỉ kinh nầy là chủ tể của tất cả kinh thuộc loại Bát Nhã, tức là trí tuệ, cũng như chúng ta lấy tâm làm chủ tể cho con người của mình vậy. Bát Nhã tức là trí tuệ còn Ba-La-Mật là tới bờ bên kia. Bờ bên nầy là thế gian còn bờ bên kia là Niết bàn. Hoặc là bờ bên nầy là dẫy đầy tham lam còn bờ bên kia là Phật đạo. Cũng có thể hiểu là thấy Có, thấy Không là bờ bên nầy còn có đủ sáng suốt để phá cái Có, cái Không là đến bờ bên kia. Do đó Ma-ha Bát-Nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh có nghĩa là bài kinh nằm lòng nói về Đại Trí tuệ. Vậy Bát Nhã Ba-La-Mật là cái sáng suốt có thể đưa người tới bờ bên kia, tức là được giác ngộ. Cái sáng suốt nầy được gọi là cái sáng suốt triệt để vì nó không hình, không tướng. Mặc dù chúng ta không thấy được nó cũng như không thể nào diễn tả về nó, nhưng thật ra chúng ta có thể biết được sự hiện hữu của nó, tức là biết nó bằng cách xuyên qua các công dụng, tức là việc làm của nó. Chẳng hạn như khi chúng ta bố thí tiền của cho người nghèo khổ thì tâm chúng ta cả.m thấy hân hoan khoan khoái vì đây là việc thiện. Cái khoan khoái nầy chính là sự bộc lộ thiện tâm của chúng ta Nhưng đố ai tìm ra được cái thiện tâm của mình? Vì thế cái trí tuệ Bát nhã cũng vậy. 
Con đường tu tập tâm là áp dụng những phương pháp để loại bỏ ra khỏi tâm những phẩm chất xấu, chiếu ánh sáng vào phần ‘tối’ của tâm thức. Khi có niềm tin chân chánh, tâm sẽ không bị lôi kéo vào những niềm tin mù quáng thiếu cơ sở mang tính mê tín dị đoan. Khi đã có chánh tín nhờ học hỏi và duyên lành, con người sẽ có động lực sống tốt, sống có ý nghĩa, và làm hiển lộ phần sáng của tâm thức mà bản chất vốn là chiếu sáng và thanh tịnh không uế nhiễm. Thiền định từng bước một giải phóng tâm ra khỏi các loại phiền não nghiệp chướng, và trả tâm về trạng thái trong sáng chiếu diệu như nó vốn có. Một cái tâm đã rũ sạch các phiền não cấu uế thì được gọi là tâm giải thoát. Đây cũng là trạng thái thiền định, khi tâm thức đã lắng dịu, khi các nhiệt động do tham, sân, si, hoài nghi, trạo hối, lo lắng bất an và các trạng thái bất thiện khác đã tạm thời được dập tắt.
Giữ thân trong sạch hạnh phúc biết bao/ Giữ miệng trong sạch hạnh phúc biết bao/ Giữ ý trong sạch hạnh phúc biết bao/ Thân cùng khẩu ý trọn lành/ Xa lìa tội lỗi gần cành hoa sen

Video xem nhiều